Qua kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thấy tội phạm cố ý gây thương tích xảy ra trên địa bàn huyện Tân Yên gia tăng, diễn biến phức tạp. Thủ đoạn phạm tội mang tính chất côn đồ, sử dụng hung khí nguy hiểm gây hậu nghiêm trọng. Tuy nhiên sau khi cơ quan Công an tiến hành xác minh thì đối tượng và bị hại tự hòa giải bồi thường, có trường hợp do bị đe dọa, ép buộc dẫn đến người bị hại từ chối giám định thương tích nên không thể khởi tố để điều tra xử lý người phạm tội.
Bộ luật Tố tụng hình sự có quy định về đối tượng bị
Theo Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2016 và được công bố theo quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo hướng: Đối với các khoản tiền vay của tổ chức ngân hàng, tín dụng, ngoài khoản tiền nợ gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn, phí mà khách hàng vay phải thanh toán cho bên cho vay theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử sơ thẩm, thì kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ
Nội dung vụ án: Do quen biết nhau qua mạng xã hội nên Trần Văn T, sinh năm 1997 và cháu Lê Thị H, sinh ngày 29/9/2006 đã nảy sinh quan hệ tình cảm với nhau. Ngày 14/9/2020, T đón và chở cháu H đến nhà nghỉ ở thị trấn N, huyện V, tỉnh B và thuê phòng nghỉ. T hỏi cháu H cho T quan hệ tình dục và cháu H đồng ý. T đã thực hiện hành vi giao cấu 02 lần với H thì bị phát hiện. Cơ quan điều tra huyện V khởi tố T về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo khoản 2 Điều 145 BLHS.
Quá trình điều tra xác định ngo
Sau khi tác giả Dương Thị Hải Yến - VKSND huyện Tân Yên có bài viết “Xử lý điện thoại của đối tượng bán dâm trong vụ án hình sự”? đăng trên trang tin điện tử của ngành Kiểm sát Bắc Giang ngày 14/03/2021. Ban biên tập nhận được 02 ý kiến trao đổi như sau.
>>> Xử lý điện thoại của đối tượng bán dâm trong vụ án hình sự?
Tác giả Hoàng Minh Đức-VKSND huyện Sơn Động có quan điểm: Mặc dù hành vi của H không cấu thành tội phạm nhưng chiếc điện thoại của H dùng để nhắn tin, trao đổi, thỏa thuận môi giới bán dâm
Ngày 26/4/2017 anh T có thỏa thuận chuyển nhượng 04 lô đất ở (lô số 34; 35; 36 và số 39) cho bà L, với tổng giá trị của 04 lô đất là 800.000.000đ. Bà L đặt cọc cho anh T số tiền 100.000.000đ, số tiền còn lại sẽ thanh toán đầy đủ cho bên bán sau 05 ngày khi bên mua nhận được thông báo đã hoàn tất thủ tục sang tên sổ đỏ cho bên mua, việc thỏa thuận và đặt cọc được hai bên viết giấy biên nhận, có người làm chứng.
Ngày 30/11/2017 anh T và bà L đến Văn phòng Công chứng Hòa Tiến ở huyện VY lập,
Sau khi tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh có bài viết “Sử dụng kết quả định giá tài sản nào để làm căn cứ xử lý” đăng trên trang tin điện tử của Ngành Kiểm sát Bắc Giang. Ban biên tập nhận được 03 ý kiến phản hồi như sau:
>>> Sử dụng kết quả định giá tài sản nào để làm căn cứ xử lý?
- Tác giả Trần Lệ Toàn – VKSND huyện Yên Thế đồng tình với quan điểm thứ hai vì:
Đối tượng tác động mà Trần Văn Đ nhằm vào là chiếc xe ô tô, trong đó lốp và săm là một trong các bộ phận của chiếc xe ô t
Đầu tháng 01 năm 2019, Nguyễn Thị K, sinh năm 2000 có hành vi môi giới cho Vi Thị H- sinh năm 2000 bán dâm cho khách mua dâm thì bị phát hiện và bắt giữ, Công an huyện thu giữ của K 01 điện thoại di động và một số vật chứng khác; thu giữ của H 01 điện thoại di động. Nguyễn Thị K bị khởi tố về tội “Môi giới mại dâm” theo khoản 1, Điều 328 Bộ luật hình sự. Còn Vi Thị H bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi mua bán dâm.
Khi xét xử có 2 quan điểm khác nhau về việc xử lý chiếc điện thoại bị thu giữ của Vi Thị H là người bán dâm
Ngày 24/12/2020, Cơ quan điều tra Công an huyện H khởi tố Nguyễn Văn A, sinh năm 1983 về tội Cưỡng đoạt tài sản theo khoản 1 điều 170 Bộ luật hình sự (hành vi phạm tội xảy ra ngày 20/12/2020). Qúa trình điều tra xác minh và tra cứu tiền án, tiền sự của A xác định:
- Ngày 26/12/2008 bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 36 tháng về tội cố ý gây thương tích (Chấp hành xong phần dân sự năm 2009);
- Ngày 18/4/2012 bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội về
Ngày 04/4/2018, bà Ngô Lệ H đến Ngân hàng Agribank gửi tiền tiết kiệm, ông Phạm Văn K cán bộ Ngân hàng là người trực tiếp thu tiền của bà H. Bà H đã được nhận sổ tiết kiệm ghi số tiền gửi 100 triệu đồng. Cuối ngày kiểm tra lại ông K mới phát hiện ông chỉ thu của bà H 80 triệu đồng, thiếu 20 triệu đồng. Bà H cho rằng bà đã nộp đủ 100 triệu đồng, tuy nhiên do ông K và ông Đinh Quang V (khi đó là Phó giám đốc Ngân hàng) có bảo bà cứ nộp bổ sung 20 triệu vào để Ngân hàng cân quỹ khóa sổ, khi n