Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Thế Bày
Hoàn thành: 2012
________________________________
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Viện kiểm sát nhân dân là một cơ quan trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam, với chức năng được quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đó là: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất…” [41, tr. 32] . Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát cáchoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật” [42, tr.1].
Hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử các vụ án hình sự là một trong những hoạt động quan trọng nhằm thực hiện chức năng Hiến định của ngành kiểm sát nhân dân. Đây là hoạt động thể hiện quyền lực nhà nước, một trong những biện phỏp hữu hiệu của Nhà nước dựng để đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng thời thể hiện quan điểm đường lối của Đảng, Nhà nước ta trong việc đảm bảo truy tố, xột xử nghiêm minh đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của đất nước, công tác của ngành Kiểm sát nhân dân đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích của công dân đều được xử lý theo quy định của phỏp luật. VKSND các cấp đã phối hợp cùng Tòa án xét xử nhiều vụ án lớn, đặc biệt nghiêm trọng về an ninh chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội…, phục vụ tốt yêu cầu chính trị địa phương và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, công tác thực hành quyền công tố trong XXST các vụ án hình sự còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội và công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Quá trình THQCT trong XXST của KSV ở một số vụ án còn nhiều vi phạm trong thủ tục tố tụng. Việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị các tài liệu, nội dung đề cương xét hỏi tại phiên tòa của KSV chưa được chú trọng. Hoạt động tranh tụng giữa KSV với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác cũng nhiều mặt hạn chế. Trong thực tế vẫn xảy ra tình trạng oan, sai, để lọt tội phạm. Một số vấn đề liên quan đến thẩm quyền, trách nhiệm trong xét xử của KSV, Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng khác tại phiên toà còn nhiều bất cập chưa được phân định rành mạch. Hệ thống pháp luật hình sự và tố tụng hình sự còn nhiều vướng mắc trong thực tiễn chưa được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn giải thích. Một trong những nguyên nhân dẫn đến những yếu kém, tồn tại nêu trên là do đội ngũ KSV còn thiếu, một số KSV yếu kém về năng lực, trình độ, chưa phát huy hết vai trò trách nhiệm trong công tác. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã xác định: “Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu kém về trình độ và năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh sa sút về phẩm chất đạo đức. Đây là vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến kỷ cương, pháp luật, giảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước" [ 6, tr.1].
Trước những mặt hạn chế nêu trên, với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại mà trọng tâm là hoạt động xét xử, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp trong thời gian tới: “Nâng cao chất lượng công tố của KSV tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác” [6, tr.3]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị tiếp tục xác định thực hiện tốt chủ trương “Nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của cải cách tư pháp…” [8, tr.9].
Mặt khác, với việc tăng thẩm quyền cho Toà án cấp huyện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì phần lớn các vụ án hình sự đều do các cơ quan tư pháp cấp huyện giải quyết. Thực tế cho thấy, giải quyết tốt ở cấp cơ sở sẽ nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh với các loại tội phạm và vi phạm pháp luật. Với vị trí độc lập trong hệ thống các cơ quan nhà nước ở cấp huyện, để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp tại địa phương, góp phần bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới thì vấn đề nâng cao năng lực thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm án hình sự của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện trên toàn quốc là một trong những đòi hỏi cấp thiết, khách quan trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên và từ nhận thức việc nâng cao năng lực THQCT trong XXST các vụ án hình sự là một trong những vấn đề quan trọng, cần được quan tâm hơn nữa cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, nhất là năng lực THQCT trong XXST các vụ án hình sự của KSV VKSND cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang. Việc học viên chọn đề tài “Năng lực thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên VKS nhân dân cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang” làm luận văn thạc sĩ Luật học là hết sức cần thiết nhằm thực hiện một cách kịp thời, đầy đủ, nghiêm túc các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp nói chung, cải cách và nâng cao năng lực THQCT trong XXST các vụ án hình sự cơ quan VKSND nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề QCT và THQCT ở nước ta đã và đang được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau:
- Luận án Tiến sĩ Luật học: Quyền công tố ở Việt Nam của Lê Thị Tuyết Hoa, năm 2002.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nâng cao chất lượng THQCT trong XXST các vụ án hình sự của KSV VKSND các quận ở thành phố Hà Nội, của tác giả Trần Đình Tú, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008. Chất lượng tranh tụng tại phiên toà XXST hình sự của KSV VKSND tỉnh Thanh Hoá, của tác giả Mai Thị Nam, Học viện chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008. Năng lực tranh tụng của KSV THQCT tại phiên toà xét xử án hình sự ở tỉnh An Giang, của tác giả Bùi Trí Dũng, Học viện chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2008. Năng lực áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, của tác giả Đào Thịnh Cường, Học viện chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2009. áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Nam Định, của tác giả Trần Quốc Hoàn, Học viện chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2009.
- Đề tài khoa học cấp bộ: Những giải pháp nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, VKSND tối cao, năm 2002.VKSND trong tiến trình cải cách tư pháp, Hội thảo khoa học, VKSND tối cao, tháng 9 - 2008.
- Đề án: Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong tiến trình cải cách tư pháp, Ban cán sự Đảng- VKSND tối cao, tháng 8 - 2008.
- Sách tham khảo: THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, của tác giả TS Lê Hữu Thể, Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2008.
Ngoài ra còn có một số công trình, bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong tiến trình cải cách tư pháp của tác giả Lê Hữu Thể, Tạp chí kiểm sát số 14-16, 2008; Bàn về mô hình VKS theo yêu cầu cải cách tư pháp của tác giả Lại Hợp Việt, tạp chí Kiểm sát số 14-16, 2008; Một số ý kiến về tổ chức và hoạt động của VKS theo yêu cầu cải cách tư pháp của tác giả Bùi Đức Long, tạp chí Kiểm sát số 14-16, 2008;...
Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập tới một số khía cạnh của QCT và THQCT song chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về năng lực THQCT trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của KSV VKSND cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang. Kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển những kết quả nghiên cứu nêu trên, luận văn này nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề năng lực THQCT trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của KSV VKSND cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Đề xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao năng lực THQCT trong XXST các vụ án hình sự của KSV VKSND cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang.
3.2. Nhiệm vụ
+ Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực THQCT trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, như khái niệm,đặc điểm năng lực THQCT; Các tiêu chí đánh giá và các điều kiện đảm bảo năng lực THQCT trong XXST các vụ án hình sự của KSV VKSND.
+ Đánh giá thực trạng năng lực THQCT trong XXST các vụ án hình sự của KSV VKSND cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang. Nêu lên những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế.
+ Trình bày các quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo nâng cao năng lực THQCT trong XXST các vụ án hình sự của KSV VKSND cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về QCT, năng lực THQCT và thực trạng, giải pháp nâng cao năng lực THQCT trong XXST các vụ án hình sự của KSV VKSND cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu vấn đề THQCT của KSV VKSND cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Thời gian nghiên cứu, khảo sát trong vòng 5 năm, từ năm 2007 đến 2011.
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực THQCT trong giai đoạn XXST các vụ án hình sự của KSV VKSND cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang, trực tiếp là sau khi ban hành bản cáo trạng và quyết định truy tố của VKSND cùng hồ sơ vụ án được chuyển đến Toà án cho đến khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc bị kháng cáo, kháng nghị và hồ sơ vụ án được chuyển lên Toà án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học Mác - Lênin, trong đó đặc biệt chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số phương pháp của các bộ môn khoa học khác như thống kê, so sánh, tọa đàm trao đổi…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần hoàn thiện một số vấn đề lý luận cơ bản về QCT, THQCT và năng lựcTHQCT, đưa ra các tiêu chí đánh giá và cỏc điều kiệnđảm bảo năng lực THQCT của KSV VKSND.
- Đánh giá khái quát thực trạng năng lựcTHQCT trong XXST các vụ án hình sự của KSV VKSND cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang trong thời gian qua.
- Đưa ra một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao năng lực THQCT trong XXST các vụ án hình sự của KSV VKSND cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang thời gian tới.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần nâng cao năng lực THQCT của KSV ngành kiểm sát nói chung và của KSV VKSND cấp huyện ở tỉnh Bắc Giang nói riêng. Đồng thời, luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy trong các cơ sở nghiên cứu, đào tạo chuyên ngành Nhà nước và pháp luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
........................