Nội dung vụ án: Ngày 27/4/2018, UBND huyện E ra Quyết định số 516 giao đất tái định cư có diện tích 184m2 đất ở nông thôn cho Nguyễn Văn A. Ngày 06/12/2018, A lập hợp đồng chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị T phần diện tích 115m2 với giá 600.000.000đồng (bà T trả 300.000.000đồng, còn lại 300.000.000 đồng hai bên thỏa thuận khi nào ông A làm xong giấy chứng nhận cho bà T sẽ trả hết tiền).
Ngày 22/01/2019, UBND huyện E cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 184m2 đất cho A. Sau khi nhận GCNQSDĐ thì A đến UBND xã làm thủ tục tách thửa thì cán bộ địa chính xã giải thích: Do thửa đất của A là đất tái định cư, không thể tách thửa cho bà T với diện tích 115 m2(rộng 5m, dài 23m) vì diện tích đất còn lại 69m2 (rộng 3m, dài 23m) không đủ để cấp GCNQSDĐ theo quy định số 745 ngày 07/11/2014 của UBND tỉnh Bắc Giang quy định về diện tích đất sau khi tách thửa phải có kích thước mặt tiền tối thiểu từ 04m trở lên.
Sau đó A về nhà liên hệ với số điện thoại trên mạng cho thông tin địa chỉ đất, diện tích và đặt làm GCNQSDĐ cho bà T có diện tích 115m2, mục đích của A là để thực hiện xong việc chuyển nhượng 115m2 đất và nhận 300.000.000 đồng còn lại từ bà T. Khoảng 01 tuần sau, A nhận được GCNQSDĐ. Sau khi xem, A biết là giả vì không đúng số lô được cấp nhưng A vẫn đưa cho bà T. Sau đó, bà T đem GCNQSDĐ này đi thế chấp ngân hàng lấy tiền trả 300.000.000 đồng cho A thì phát hiện GCNQSDĐ là giả.
Hiện nay có hai quan điểm xác định tội danh đối với A như sau:
Quan điểm thứ nhất: A phạm tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định Điều 341 BLHS vì A chuyển nhượng 115 m2 đất cho bà T là có thật, đúng quy định pháp luật dân sự. Nhưng khi được cán bộ địa chính xã giải thích theo quy định của UBND tỉnh thì không thể tách 184m2 đất làm 02 thửa (01 thửa 115m2, 01 thửa 69m2) như yêu cầu nên A đã đặt làm GCNQSDĐ giả rồi đưa cho bà T, mục đích là thực hiện xong việc chuyển nhượng đất và lấy hết 300.000.000 đồng còn lại. Do đó A phạm tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Quan điểm thứ hai: A phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định Điều 175 BLHS vì ngày 06/12/2018 A đã ký hợp đồng chuyển nhượng đất và nhận số tiền 300.000.000đồng từ bà T nhưng sau đó không làm được GCNQSDĐ như thỏa thuận nên A đã thực hiện hành vi đặt làm giả GCNQSDĐ để chiếm đoạt tiếp 300.000.000 đồng còn lại nếu không A sẽ phải trả lại bà T số tiền 300.000.000 đồng lúc đầu. Do vậy việc A làm GCNQSDĐ giả là thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền của bà T.
Cá nhân tôi đồng ý với quan điểm thứ hai, rất mong nhận được ý kiến trao đổi của đồng nghiệp./.
Trần Văn Mạnh- VKSND huyện Lạng Giang