ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Thứ bảy, 23/11/2024 -08:39 AM

Nguyễn Văn A được xác định là có tiền án hay nhân thân?

 | 

Ngày 01/02/2019, Nguyễn Văn A bị Cơ quan CSĐT Công an thành phố X, tỉnh N khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 2 Điều 173 BLHS; xác minh lý lịch bị can A thấy rằng, năm 2011, A đã bị đưa ra xét xử về tội Đánh bạc. Tuy nhiên, việc xác định nhân thân của A chưa được thống nhất xin đưa ra để trao đổi.

Tại Bản án số 48/2011/HSST ngày 24/01/2011 của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh N xử phạt Nguyễn Văn A 12.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”, phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm (Bản án số 48).

Do Nguyễn Văn A có hộ khẩu thường trú tại huyện C, tỉnh N nên ngày 15/03/2011, Chi cục THADS thành phố X đã ra Quyết định Ủy thác thi hành án đến Chi cục thi hành án huyện C để thi hành số tiền 12.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí theo bản án nói trên.

Xác minh tại Chi cục THADS thành phố X, tỉnh N xác định giữa Chi cục THADS thành phố X và Chi cục THADS huyện C có biên bản giao nhận quyết định ủy thác THA và các tài liệu liên quan đến việc thi hành án của A.

Tiến hành xác minh việc chấp hành bản án đối với A tại Chi cục THADS huyện C nhận được kết quả: không có tài liệu lưu trữ liên quan đến việc chấp hành Bản án số 48 của Nguyên Văn A.

Từ kết quả xác minh trên, có 2 quan điểm về nhân thân của A là:

* Quan điểm thứ nhất: Nguyễn Văn A được áp dụng thời hiệu thi hành án và được xóa án tích theo quy định của pháp luật; tại thời điểm phạm tội mới, Nguyễn Văn A được xác định là có nhân thân, vì:

- Tại khoản 1 Điều 36 Luật THADS sự quy định:

“1. Thủ trưởng cơ quan THQDS chủ động ra quyết định thi hành đối với phần bản án, quyết định sau đây:

a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí;

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án.”

- Tại khoản 1 Điều 55 Luật THADS quy định:

"1. Thủ trưởng cơ quan THADS phải uỷ thác thi hành án cho cơ quan THADS nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở".

- Tại khoản 2 Điều 57 Luật THADS quy định:

“2. Cơ quan thi hành án dân sự nhận ủy thác không được trả lại quyết định ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy thác mà phải tiếp tục thực hiện việc thi hành án theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quyết định ủy thác có sự nhầm lẫn, sai sót rõ ràng về thẩm quyền của cơ quan nhận ủy thác thi hành án, nội dung thi hành án.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác, Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định thi hành án và thông báo bằng văn bản cho cơ quan THADS đã ủy thác về việc nhận được quyết định ủy thác.”

Căn cứ vào các quy định trên xác định: Khi bản án số 48 có hiệu lực pháp luật, Chi cục THADS thành phố X đã ra Quyết định ủy thác thi hành án đến Chi cục THADS huyện C là tuân thủ đúng về thời hạn và quy định của Luật THADS. Việc Nguyễn Văn A phải thi hành khoản tiền phạt 12.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí đều thuộc trường hợp thi hành án chủ động. Như vậy, sau 05 ngày kể từ ngày nhận được Quyết định ủy thác thi hành án của chi cục THADS thành phố X thì thủ trưởng Chi cục THADS huyện C phải ra Quyết định thi hành án và thông báo bằng văn bản cho cơ quan THADS thành phố X về việc nhận được quyết định ủy thác. Thực tế không chứng minh được Chi cục THADS huyện C đã ra Quyết định thi hành án đối với khoản tiền phạt 12.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí HSST của A.

Theo quy định tại Điều 30 Luật THADS quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án và Điều 60 Bộ luật hình sự 2015 quy định về thời hiệu thi hành bản án thì đến thời điểm tháng 02/2019, Nguyễn Văn A không phải chấp hành bản án sơ thẩm số 48 nữa nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 70 BLHS 2015 Nguyễn Văn A đương nhiên được xóa án tích.

* Quan điểm thứ hai: Nguyễn Văn A được xem là chưa thi hành bản án, cần xác định có 01 tiền án tại bản án mới, vì:

Nguyễn Văn A tham gia phiên tòa, đã nghe nội dung bản án được tuyên công khai, A cũng đã nhận được bản án do Tòa án giao theo quy định, bản thân A biết rõ nghĩa vụ của mình là phải thi hành khoản tiền phạt 12.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 30 Luật THADS quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án: “Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án."

Như vậy, nếu Cơ quan THADS có thẩm quyền không ra Quyết định thi hành án thì bản thân Nguyễn Văn A có quyền gửi đơn yêu cầu thi hành án để thực hiện nghĩa vụ của mình. Nguyễn Văn A không chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án. Do đó, Nguyễn Văn A không được áp dụng thời hiệu thi hành án. Đến thời điểm phạm tội mới Nguyễn Văn A chưa thi hành việc nộp khoản tiền phạt 12.000.000 đồng và tiền án phí 200.000 đồng nên chưa được xóa án tích.

Tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất. Rất mong nhận được sự trao đổi của các đồng chí./.

Hoàng Văn Đĩnh- VKSND thành phố Bắc Giang

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:31,428,660
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.136.26.156

    Thư viện ảnh