.

Thứ ba, 23/07/2024 -10:26 AM

Trao đổi bài viết “ Cục Thi hành án dân sự ra quyết định về việc hủy quyết định về thi hành án có căn cứ hay không” .

 | 

Sau khi đọc bài viết của tác giả Đồng Thị Toàn ở đơn vị Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang về việc “ Cục Thi hành án dân sự ra quyết định về việc hủy quyết định về thi hành án có căn cứ hay không”. Tôi xin đưa ra quan điểm cá nhân trao đổi như sau:

Quyết định thi hành án số 31/QĐ- CCTHADS ngày 28/10/2013 của Chi cục THADS huyện X cho thi hành đối với ông B phải có nghĩa vụ giao cho bà A 136 m2 diện tích đất (hiện ông B đang quản lý và sử dụng) và tài sản trên đất có tổng trị giá 462.380.000đ. Nhưng bà A phải có trách nhiệm trích chia tiền chệnh lệch về tài sản cho ông B số tiền 97.573.500đ. Ông B phải trả cho bà A 1.000.000 đồng tiền chi phí định giá tài sản.

 Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự quy định về đình chỉ thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp: “ Đương sự thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ một phần hoặc toàn bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người thứ ba”.

Trong nội dung bài viết của tác giả thể hiện, quá trình tổ chức thi hành án, ngày 22/4/2014 bà A có đơn xin rút yêu cầu thi hành án về các khoản như trong quyết định thi hành án số 31/QĐ và Chi cục Thi hành án đã lập biên bản về việc người được thi hành án tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án và hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Như vậy bà A rút đơn yêu cầu thi hành hành án là hoàn toàn tự nguyện. Chi cục Thi hành án dân sự huyện X ra quyết định đình chỉ thi hành án đối với bà A là có căn cứ.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật THADS quy định về quyền yêu cầu thi hành án: “Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án”. Trường hợp này cả bà A và ông B vừa là người được thi hành án, vừa là người phải thi hành án. Ông B cũng có quyền được yêu cầu thi hành án. Pháp luật cho phép ông B có quyền tự nguyện thi hành phần nghĩa vụ thi hành án của mình đồng thời có quyền yêu cầu bà A phải trích chia phần tiền chênh lệch về tài sản sau khi đã tự nguyện giao tài sản cho bà A.

Mặt khác, theo quyết định đình chỉ thi hành án thì quyền và nghiã vụ giữa bà A và ông B chưa được thi hành, trên thực tế tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất ông B vẫn đang quản lý sử dụng có giá trị lớn hơn nhiều lần  (462.380.000đ) so với nghĩa vụ mà bà A phải thi hành đối với ông B ( 91.573.500đ) thì không thể nói ảnh hưởng đến quyền lợi của ông B.

Tôi đồng ý với quan điểm thứ hai. Rất mong sự tham gia đóng góp của các đồng nghiệp.

Dương Thị Thúy- Viện KSND huyện Hiệp Hòa

----------------------------------------

Bản án số 03/2013/HNGĐ-ST ngày 23/5/2013, Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Y quyết định: Giao cho bà A được quyền sử dụng diện tích đất 136m2 (nhưng diện tích đất này ông B đang quản lý và sử dụng, giá trị là 462.380.000đ) và được nhận 1.000.000đ tiền chi phí định giá tài sản do ông B hoàn trả; bà A phải có trách nhiệm trích chia tiền chênh lệch về tài sản cho ông B số tiền 91.573.500đ.          

Ngày 25/10/2013, bà A có đơn yêu cầu thi hành án gửi Chi cục THADS huyện X. Ngày 28/10/2013, Chi cục THADS huyện X ra Quyết định thi hành án số 31/QĐ-CCTHADS cho thi hành các khoản mà bà A được hưởng theo bản án (136m2 đất, tài sản trên đất và 1.000.000đ tiền chi phí định giá tài sản) đối với ông B.          

Trong Quá trình tổ chức thi hành án, ngày 22/4/2014, bà A có đơn xin rút đơn yêu cầu thi hành án về các khoản như trong Quyết định thi hành án số 31/QĐ-CCTHADS ngày 28/10/2013 của Chi cục THADS huyện X. Tại biên bản về việc người được thi hành án tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án lập hồi 10 giờ 30 phút ngày 22/4/2014 tại Chi cục THADS huyện X thể hiện việc bà A tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án và hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Do vậy, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự năm 2008, Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện X đã ra Quyết định đình chỉ thi hành án số 26/QĐ-CCTHADS ngày 22/4/2014. (Tại thời điểm ban hành quyết định đình chỉ THA này là có căn cứ).           

Tuy nhiên, bà A lại có đơn yêu cầu thi hành án (yêu cầu ông B giao 130m2 đất, trả 01 triệu đồng tiền chi phí định giá tài sản) và bà A trình bày về việc ngày 29/10/2013, Chấp hành viên đến nhà bà A giao cho bà Quyết định thi hành án số 31/QĐ-CCTHADS. Bà có đề nghị được trả dần số tiền chênh lệch về tài sản là 91.573.500đ cho ông B nhưng Chấp hành viên trả lời là bà A phải nộp đủ số tiền trả ông B như trên thì mới được giao tài sản theo bản án. Nội dung đơn xin rút đơn yêu cầu thi hành án là do Chấp hành viên đọc cho bà A viết. Nay bà A nhận thấy quyền lợi của mình không được đảm bảo nên bà vẫn yêu cầu thi hành án theo quyết định của bản án số 03.       

Mặc dù, Việc bà A rút đơn yêu cầu thi hành án là hoàn toàn tự nguyện, trong hồ sơ không có tài liệu xác minh việc bà A rút đơn yêu cầu thi hành án có lỗi của Chấp hành viên như bà A trình bày, Chi cục THADS huyện X ra Quyết định đình chỉ thi hành án số 26/QĐ-CCTHADS ngày 22/4/2014 là có căn cứ nhưng Quyết định đình chỉ thi hành án số 26/QĐ-CCTHADS sẽ làm chấm dứt quyền lợi của bà A về việc yêu cầu ông B trả diện tích 136m2 đất và 01 triệu đồng tiền chi phí định giá. Khi bà A không có tài sản nào khác để trả ông B số tiền 91.573.500đ thì sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của ông B (trường hợp này “ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba” theo điểm c khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự năm 2008) Do bà A có đơn đề nghị xem xét lại quyết định đình chỉ số 26; để đảm bảo quyền và lợi lích của các bên, ngày 18/6/2018 Cục THADS tỉnh Y ra Quyết định số 01/QĐ-CTHADS về việc hủy toàn bộ Quyết định đình chỉ thi hành án số 26/QĐ-CCTHADS ngày 22/4/2014 của Chi cục THADS huyện X. Lý do hủy: Để tiếp tục tổ chức thi hành Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 31/QĐ-CCTHADS ngày 28/10/2013 của Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự huyện X là có căn cứ.          

Tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất mà tác giả đưa ra. Rất mong các đồng nghiệp cùng trao đổi ./.

Giáp Thị Thủy - Phòng 10, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang.

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:28,523,065
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.142.255.252

    Thư viện ảnh