Nội dung vụ án: Ông T và bà L tự nguyện chung sống với nhau từ ngày 16/6/1982 tại xã N, huyện Y và có tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Nhưng ông T và bà L không thực hiện việc đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền. Quá trình chung sống giữa ông T và bà L xảy ra nhiều mâu thuẫn, nên ông, bà đã sống ly thân từ tháng 4/2016 đến nay. Xác định tình cảm vợ chồng không còn nên ông T gửi đơn đến Tòa án nhân dân huyện Y yêu cầu giải quyết cho ông được ly hôn với bà L.
Trong quá trình giải quyết vụ án có hai quan điểm khác nhau:
* Quan điểm thứ nhất: Cần xử cho ông T được ly hôn với bà L, bởi lẽ:
Tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình quy định: "a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987, ngày Luật hôn nhân và Gia đình năm 1987 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân gia đình năm 2000".
Tại điểm b khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp quy định: “4. “Người đang có vợ hoặc có chồng” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình là người thuộc một trong các trường hợp sau đây: ...b) Người xác lập quan hệ vợ chồng với người khác trước ngày 03-01-1987 mà chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết”.
Do quan hệ vợ chồng của ông T và bà L được xác lập trước ngày 03/01/1987 nhưng ông, bà không đăng ký kết hôn. Do vậy, căn cứ vào quy định nêu trên thì yêu cầu khởi kiện của ông T được Tòa án huyện Y thụ lý giải quyết cho ông T được ly hôn với bà L.
* Quan điểm thứ hai: Cần xử không công nhận quan hệ giữa ông T và bà L là vợ chồng, bởi lẽ:
Tại khoản 4 Điều 3 Thông tư số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 quy định: “4. Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) và có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý, giải quyết và áp dụng Điều 9 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ”...
Mặc dù quan hệ vợ chồng của ông T, bà L được xác lập trước ngày 03/01/1987; ông T, bà L không vi phạm các điều kiện cấm kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn là vi phạm khoản 1 Điều 8, khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình nên căn cứ vào khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 và Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53, khoản 2 Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết không công nhận quan hệ giữa ông T và bà L là vợ chồng.
Cá nhân tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất. Rất mong nhận được ý kiến trao đổi của các đồng nghiệp./.
Nguyễn Thị Bộ- VKSND huyện Tân Yên