Sau khi đọc các bài viết "Xác định nhân thân hay tiền án?" của tác giả Giáp Thị Thủy và phản hồi của tác giả Đặng Đức Hùng- VKSND thành phố Bắc Giang. Tôi có quan điểm như sau:
- Cơ quan THADS ra quyết định thi hành án chủ động còn thời hiệu hay không và xác định nhân thân đối với A:
Căn cứ các quy định về xóa án tích của Bộ luật hình sự năm 2015 thì các tác giả đều xác định các Bản án số 02 ngày 05/01/2006 và số 01 ngày 27/8/2010 đã được xóa án tích.
Tác giả Đặng Đức Hùng có quan điểm “Bản án số 11 ngày 30/12/2011 được xác định là nhân thân” vì A đã thỏa mãn hai điều kiện theo điểm b khoản 2 điều 70 BLHS năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 60 BLHS năm 2015. Căn cứ khoản 3 điều 70 BLHS năm 2015 quy định “Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này”. Dẫn chiếu quy định tại khoản 2 Điều 60 đã trích dẫn ở trên thì A đương nhiên được xoá án tích khi không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn 2 năm được tính từ lúc chấp hành xong hình phạt chính chứ không tính từ thời điểm A không phải thi hành án phí do bản án hết hiệu lực.
Quan điểm của cá nhân tôi thì: Ngày 19/3/2018 Cơ quan THADS mới ra quyết định thi hành án chủ động đối với A phải thi hành 200.000đ án phí HSST. Đối chiếu các quy định về thời hiệu thi hành bản án hình sự thấy:
Điều 55 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định:
“1. Thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên.
2. Thời hiệu thi hành bản án hình sự được quy định như sau:
a) Năm năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt tù từ ba năm trở xuống…”
Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn một số quy định của BLHS về thời hiệu thi hành bản án, trong đó có quy định:
“Thời hiệu thi hành bản án quy định tại Điều 55 của BLHS là thời hiệu thi hành bản án hình sự về quyết định hình phạt. Đối với các quyết định về bồi thường thiệt hại, án phí và các quyết định khác về tài sản thì việc xác định thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự"
Như vậy, thời hiệu thi hành bản án hình sự chỉ áp dụng đối với quyết định về hình phạt chứ không áp dụng đối với phần án phí.
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ không quy định thời hiệu thi hành đối với quyết định của bản án về phần án phí.
Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2014 quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án như sau:
“Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.
Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn”
Điều 36 Luật thi hành án dân sự năm 2014 quy định Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành đối với phần bản án, quyết định sau đây:
a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí;
b) Trả lại tiền, tài sản cho đương sự;
c) Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản;
d) Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước;
đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời...."
Điểm a khoản 2 Điều 60 BLHS năm 2015 quy định về thời hiệu thi hành bản án;
Điều 60. Thời hiệu thi hành bản án:
2. Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với người bị kết án được quy định như sau:
a) 05 năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt tù từ 03 năm trở xuống;”
Như vậy, Luật THADS chỉ quy định thời hiệu thi hành đối với các khoản thi hành án theo đơn yêu cầu, còn phần của bản án, quyết định do Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định chủ động thì không quy định thời hiệu (trừ hình phạt tiền) do vậy việc ra quyết định thi hành án chủ động phần án phí HSST 200.000đ đối với A của Cơ quan THADS là đúng, không vi phạm và phù hợp quy định tại Điều 36 của Luật thi hành án dân sự năm 2014.
Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn một số quy định của BLHS về thời hiệu thi hành bản án, trong đó quy định: “Thời hiệu thi hành bản án quy định tại Điều 55 của BLHS là thời hiệu thi hành bản án hình sự về quyết định hình phạt. Đối với các quyết định về bồi thường thiệt hại, án phí và các quyết định khác về tài sản thì việc xác định thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự”;
Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ lại không quy định thời hiệu thi hành đối với quyết định của bản án về phần án phí. Do vậy, A vẫn phải thi hành khoản án phí HSST trên.
Đối chiếu với quy định tại khoản 2 Điều 64 BLHS năm 1999 và khoản 2 Điều 70 BLHS năm 2015 thì A chưa được xóa án tích. Bản án số 11 ngày 30/12/2011 chưa đủ điều kiện để xóa án tích (chấp hành xong hình phạt chính, chưa chấp hành xong các quyết định khác của bản án) và lần phạm tội ngày 08/12/2017 của A bị coi là tái phạm.
Tôi mong các đồng nghiệp cùng trao đổi./.
Ngô Thị Tươi- VKSND huyện Hiệp Hòa