Trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự về tham nhũng, chức vụ thì những hành vi khách quan rất đa dạng, dẫn đến các quan điểm khác nhau trong định tội, cũng như xác định hậu quả xảy ra để định khung. Sau đây là một dạng hành vi cụ thể để cùng trao đổi.
Nội dung vụ án: Nguyễn Văn T là cán bộ địa chính xã Đ, huyện Y, tỉnh B. Trong Quyết định của UBND huyện, Hướng dẫn của Phòng tài nguyên và môi trường huyện không quy định và hướng dẫn về kinh phí cấp mới, cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh B quy định miễn lệ phí địa chính khi cấp GCNQSD đất đối với các hộ gia đình, cá nhân ở nông thôn... trừ hộ gia đình, cá nhân tại các phường thuộc thành phố, nhưng T vẫn tham mưu để Chủ tịch UBND xã Đ ký Kế hoạch về việc cấp mới, cấp đổi GCNQSD đất cho nhân dân xã Đ nên kinh phí thực hiện là nguồn kinh phí nhà nước và do nhân dân đóng góp.
Tại Hội nghị mở rộng (gồm Bí thư Chi bộ, Trưởng các thôn) triển khai thực hiện Kế hoạch của UBND xã, T đưa ra ý kiến thu 100.000 đồng/01 bộ hồ sơ xin cấp mới, cấp đổi GCNQSDĐ, nhưng có ý kiến không đồng ý với lý do “vì trong Kế hoạch của UBND xã không ghi thu bao nhiêu tiền, nên việc thu tiền làm hồ sơ cấp mới, cấp đổi GCNQSDĐ, như vậy phải có văn bản quy định cụ thể”. Khi kết luận hội nghị, Chủ tịch UBND xã Đ không kết luận, chỉ đạo cụ thể về việc được phép hay không được phép thu tiền như ý kiến của T đưa ra, mà yêu cầu T phải nghiên cứu kỹ các văn bản của các cơ quan có thẩm quyền cho phép thu thì mới được thu.
Sau hội nghị, T không báo cáo lại Chủ tịch UBND xã về việc được hoặc không được phép thu tiền cấp đổi, cấp mới GCNQSDĐ. Từ ngày 28/9/2015 đến ngày 30/3/2016, T phối hợp cùng với Trưởng thôn để hướng dẫn các hộ dân làm hồ sơ. T nói với các Trưởng thôn là thu 100.000đồng/ 01 bộ hồ sơ trong đó trích lại cho thôn 20.000 đồng/01 hồ sơ để chi phí (chi cho việc ăn uống khi làm hồ sơ). Tổng số hồ sơ các thôn thu được là 1.076 bộ hồ sơ với số tiền là 107.600.000 đồng. T đã trích lại 20.000đ/ 01 hồ sơ cho các thôn với tổng số tiền là 21.520.000 đồng, còn lại 86.080.000 đồng T không báo cáo Chủ tịch UBND xã mà dùng chi tiêu cá nhân hết. Số tiền T trích lại thôn, các thôn đã chi phí phụ vụ cho việc làm hồ sơ cấp mới, cấp đổi GCNQSDĐ.
Hành vi nêu trên của T đã cấu thành tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 355 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên việc xác định số tiền T chiếm đoạt có quan điểm khác nhau. Cụ thể:
Quan điểm thứ nhất:T đã chiếm đoạt của các hộ dân với số tiền là 107.600.000 đồng và phải áp dụng điểm d khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015 để truy tố, xét xử vì: T đã lạm dụng chức vụ khi được giao làm hồ sơ cấp mới, cấp đổi GCNQSDĐ để yêu cầu các Trưởng thôn thu tiền không đúng quy định của các hộ dân với số tiền đã thu được 107.600.000 đồng để chiếm đoạt. Việc T chi cho các Trưởng thôn 21.520.000 đồng trong số tiền 107.600.000 đồng là do T tự chi, không có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định, do đó T phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền 107.600.000 đồng.
Quan điểm thứ hai: T đã chiếm đoạt của các hộ dân với số tiền là 86.080.000 đồng và phải áp dụng khoản 1 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015 để truy tố, xét xử vì: T đã lạm dụng chức vụ khi được giao làm hồ sơ cấp mới, cấp đổi GCNQSDĐ để yêu cầu các Trưởng thôn thu tiền không đúng quy định của các hộ dân với số tiền các hộ dân đã nộp là 107.600.000 đồng, nhưng T chỉ nhận của các Trưởng thôn và chiếm đoạt được 86.080.000 đồng, còn lại 21.520.000 đồng T đã công khai và thống nhất trích cho các Trưởng thôn để chi phí cho việc lập hồ sơ và thực tế số tiền này đã được chi cho hoạt động này. Do đó có đủ căn cứ xác định T chiếm đoạt và chịu trách nhiệm hình sự số tiền 86.080.000 đồng, số tiền T gây thiệt hại và phải chịu trách nhiệm dân sự hoàn trả cho các hộ dân là 107.600.000 đồng.
Theo quan điểm cá nhân tôi đồng tình với quan điểm thứ hai. Rất mong nhận được sự quan tâm trao đổi của bạn đọc./.
Ngô Hữu Xuân- Phòng 3