ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Thứ bảy, 23/11/2024 -03:43 AM

Những điểm quy định mới về vấn đề bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

 | 

Quyền bào chữa của người bị buộc tội luôn là vấn đề quan trọng vì gắn liền với quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp quy định. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục, quyền của người bào chữa cũng như trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong phạm vi của bài viết này, tôi xin đề cập đến một số điểm quy định mới về vấn đề bào chữa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

1. Về đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa

Điều 72 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định: “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa.

Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định người bị buộc tội bao gồm: Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Như vậy, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 mở rộng thêm đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa là người bị bắt. Quy định mới này đã thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về người bị bắt có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.

2. Về người bào chữa

Điều 72 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa có thể là: Luật sư; người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân; trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.

Như vậy, so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì số lượng người bào chữa của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nhiều hơn 01 người là trợ giúp viên pháp lý. Trường hợp này được áp dụng đối với người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.

Khoản 4 Điều 72 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có quy định 11 người không được bào chữa, tăng thêm 05 trường hợp so với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 gồm: Người dịch thuật, người định giá tài sản, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đã bị kết án chưa được xóa án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.

3. Về quyền của người bào chữa

Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có một số quy định mới về quyền của người bào chữa, cụ thể:

- Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, khi người bị bắt bị người tiến hành tố tụng lấy lời khai thì người bào chữa cho người bị bắt có quyền có mặt để nghe việc lấy lời khai. (Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không quy định người bào chữa có mặt khi người tiến hành tố tụng lấy lời khai của người bị bắt).

- Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. (Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định người bào chữa có quyền này chỉ khi được sự đồng ý của Điều tra viên).

- Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này. (Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định người bào chữa phải đề nghị với cơ quan tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm để có mặt khi hỏi cung bị can).

- Đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. (Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không quy định người bào chữa có quyền này).

- Thu thập chứng cứ, kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Đây là một quy định hoàn toàn mới về quyền của người bào chữa. Như vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định mới là ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án thì người bào chữa cũng là chủ thể được quyền thu thập chứng cứ là.

Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta cần nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thu thập chứng cứ, cụ thể:

Khoản 2 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa”.

 Khoản 4 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm tiếp nhận, lập biên bản giao nhận, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do người có thẩm quyền thu thập chứng cứ (trong đó có người bào chữa) cung cấp.

4. Về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng

Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ”.

Đây là quy định mới cho phép người bào chữa được tham gia tố tụng sớm hơn, đồng thời cụ thể hóa Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định người bị bắt có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. (Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định trong trường hợp bắt người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ).

5. Về lựa chọn người bào chữa

Khoản 1 Điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định: “Người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn”. Như vậy, Bộ luật quy định cụ thể 03 đối tượng được quyền lựa chọn người bào chữa là: Người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), người đại diện và  người thân thích của người bị buộc tội. (So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì quyền lựa chọn người bào chữa tăng thêm 02 đối tượng là người bị bắt và người thân thích của họ).

Khoản 2 Điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định mới về trách nhiệm của cơ quan đang quản lý người bị tạm giam phải chuyển đơn yêu cầu người bào chữa cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họNếu yêu cầu bào chữa của người bị tạm giam không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan đang quản lý người bị tạm giam phải có trách nhiệm chuyển đơn yêu cầu bào chữa cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào chữa.

Khoản 3 Điều 75 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định mới về trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam mà có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam hoặc cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát hoặc Tòa án đang có trách nhiệm giải quyết phải thông báo ngay cho người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam biết về việc người đại diện hoặc người thân thích của họ nhờ người bào chữa để có ý kiến đồng ý hay không đồng ý về việc nhờ người bào chữa.

6. Về trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa

Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định trường hợp người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải bắt buộc chỉ định người bào chữa cho họ là: 

a, Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình.

b, Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa được; người có nhược điểm về tâm thần hoặc người dưới 18 tuổi.

Như vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng phạm vi bắt buộc phải có người bào chữa là người bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội phạm theo khung hình phạt có mức cao nhất là 20 năm tù, tù chung thân. (Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định bắt buộc chỉ định người bào chữa trong trường hợp bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình).

7. Về cấp đăng ký bào chữa

Điều 78 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định mới về thủ tục đăng ký bào chữa: “Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định tại Khoản 2 hoặc Khoản 3 Điều này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa quy định tại Khoản 5 Điều này thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa. Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng...”

Như vậy, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 rút ngắn 1/3 thời gian khi làm thủ tục đăng ký bào chữa, thay vì trong thời hạn 03 ngày như trước đây thì quy định hiện nay chỉ còn thời hạn 24 giờ, chỉ phải đăng ký 01 lần. Thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng từ khi khởi tố đến khi truy tố, xét xử vụ án.

8. Vấn đề cần chú ý:

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016. Vừa qua, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 144/2016/NQ13 ngày 29/6/2016 về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật thi hành tạm giữ tạm giam năm 2015. Tuy nhiên, Khoản 4 Điều 1 của Nghị quyết hướng dẫn thì kể từ ngày 01/7/2016:

- Thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội tại Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự và tiếp tục áp dụng các quy định khác có lợi cho người phạm tội tại Nghị quyết số 109/2015/NQ13.

- Áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để thi hành các quy định khác có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 109/2015/NQ13.

Như vậy, căn cứ Nghị quyết số 144/2016/NQ13 ngày 29/6/2016 đã hướng dẫn nêu trên thì những điểm quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về đối tượng, phạm vi, trình tự, thủ tục quy định về bào chữa mà có lợi cho người phạm tội thì sẽ được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng kể từ ngày 01/7/2016.

Nguyễn Ngọc Cường

 

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:31,426,247
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.131.13.196

    Thư viện ảnh