Trần Văn T là Chủ tịch UBND xã Đ, huyện L. Hợp tác xã tiêu thụ điện năng xã Đ được Chủ tịch UBND huyện ký quyết định thành lập, trụ sở đóng tại UBND xã Đ, Chủ nhiệm Hợp tác xã là Trần Văn H (là cháu ruột của Trần Văn T), có con dấu, tài khoản riêng, có tư cách pháp nhân và đăng ký kinh doanh hoạt động trên lĩnh vực dịch vụ mua bán điện theo Luật HTX. Trong quá trình H điều hành hoạt động, do quản lý không tốt nên Hợp tác xã bị thua lỗ và nợ đọng tiền điện. Thấy vậy, Trần Văn T đã lập bảng giá bán điện theo bậc thang cao hơn 5% so với bảng giá điện do Bộ Công thương quy định tại Thông tư số 46/TT-BCT ngày 10/12/2014 và ngày 25/6/2015, Trần Văn T đã ký Thông báo số 23/TB-UBND cho Trần Văn H thực hiện thu theo bảng giá. Căn cứ vào Thông báo và Bảng giá do Chủ tịch UBND xã ban hành, từ tháng 6/2015 đến tháng 9/2015, Trần Văn H đã thu của 870 hộ dân ở 12 thôn trên địa bàn xã Đ với số tiền chênh lệch của Thông tư 46/TT-BCT với số tiền 156.544.000 đồng để chi cho hoạt động của HTX như trả nợ cũ, trả lương cho nhân viên trong đó có cả H.
Hành vi của Trần Văn T phạm tội "Lạm quyền trong khi thi hành công vụ" quy định tại điểm c khoản 2 Điều 282 Bộ luật hình sự năm 1999 (điểm c khoản 2 Điều 357 Bộ luật hình sự năm 2015). Vì căn cứ vào hậu quả do hành vi của Trần Văn T gây ra làm thiệt hại cho các hộ dân ở xã Đ với số tiền là 156.544.000 đồng (tình tiết định khung là gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản; Bộ luật hình sự năm 1999, áp dụng theo Thông tư liên tịch số 02/2001 của VKSND Tối cao - TAND Tối cao - Bộ Công an - Bộ Tư pháp là gây thiệt hại từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; Bộ luật hình sự năm 2015 là gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng).
Tuy nhiên việc xử lý hành vi của Trần Văn H thì có hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất: Hành vi của Trần Văn H không cấu thành tội phạm. Vì trong vụ án này Trần Văn T là chủ thể của tội phạm, là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội (ký Thông báo số 23/TB-UBND cho thu tiền điện theo bảng giá điện bậc thang cao hơn so với giá do Bộ Công thương quy định); trước khi Trần Văn T ký Thông báo số 23/TB-UBND giữa Trần Văn T và Trần Văn H không có sự bàn bạc thỏa thuận gì; không có căn cứ chứng minh H biết hoặc phải biết việc thu tiền theo Thông báo số 23/TB-UBND là hành vi vi phạm pháp luật. Do đó tuy H là người trực tiếp tổ chức thu tiền điện vượt quy định của Bộ Công thương, gây thiệt hại cho các hộ nhưng hành vi đó không phải là nguyên nhân chính và quyết định gây ra thiệt hại cho các hộ dân (không có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả). Vì vậy hành vi của H không đồng phạm với T cũng như không cấu thành tội phạm hình sự.
Quan điểm thứ hai: Hành vi của Trần Văn H là đồng phạm của Trần Văn T vì: Mặc dù giữa 2 người không có sự bàn bạc, thỏa thuận hay thống nhất nhưng H là chủ nhiệm Hợp tác xã tiêu thụ điện năng, nắm được các quy định của Bộ Công thương về giá điện được phép thu và là người trực tiếp tổ chức thu tiền điện sai quy định, gây thiệt hại cho các hộ dân. H nhận thức rõ hành vi của mình là sai và buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả xảy ra.
Bản thân tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất. Rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp và các độc giả./.
Nguyễn Thị Huệ Anh – Phòng 3