.

Chủ nhật, 19/05/2024 -13:53 PM

Khó khăn, vướng mắc trong công tác thi hành án hình sự

 | 

Thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm đảm bảo các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và những bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định được thi hành đầy đủ, kịp thời và đúng pháp luật. Từ khi Luật Thi hành án hình sự có hiệu lực đã tạocơ sở pháp lý, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án và kiểm sát thi hành án hình sự. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn có một số khó khăn, vướng mắc rất cần được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn. Dưới đây, tác giả xin nêu một vụ việc cụ thể  để trao đổi cùng đồng nghiệp và bạn đọc:

Tại bản án số 57/HSST ngày 31/12/2004 của Tòa án nhân dân huyện L xử phạt bị án Nguyễn Thị H 02 năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy", tổng hợp hình phạt với bản án trước, bị cáo H phải chịu hình phạt chung cho cả hai bản án là 09 năm tù.

Từ thời điểm bản án số 57/HSST ngày 31/12/2004 của Tòa án huyện L có hiệu lực pháp luật cho đến nay, Nguyễn Thị H đã nhiều lần được hoãn thi hành án với lý do đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi (mặc dù chồng của H đã chết song bị án vẫn sinh con liên tục nhằm trốn tránh việc thi hành án). Đến ngày 03/9/2013, khi Nguyễn Thị H hết thời hạn hoãn chấp hành thi hành án phạt tù, Tòa án nhân dân huyện L đã ra Quyết định thi hành án số 56 và tống đạt cho bị án H theo đúng quy định. Ngày 07/10/2013, bị án H mang theo con nhỏ 38 tháng tuổi tự nguyện đi chấp hành án tại Trại Tạm giam tỉnh B nhưng cán bộ Trại Tạm giam không tiếp nhận với lý do: Trại Tạm giam không có khu vực dành riêng cho người chấp hành án có con nhỏ, do đó H về nhà và không tự nguyện đi thi hành án nữa.Quá trình kiểm sát thi hành án, Viện kiểm sát huyện L đã có công văn đôn đốc thực hiện việc áp giải bị án H, tuy nhiên Cơ quan thi hành án hình sự Công an cùng cấp vẫn chưa áp giải được vì lý do “không có người thân nhận nuôi dưỡng con của bị án H”, đây là một trong những khó khăn mà Cơ quan thi hành án hình sự không thể giải quyết được.

Trong khi Cơ quan thi hành án hình sự còn đang vướng mắc trong việc áp giải bị án đi thi hành án thì đến ngày 16/9/2014, bị án H tiếp tục có đơn xin hoãn chấp hành hình phạt tù với lý do: Đang nuôi con đẻ có tên Nguyễn Bảo Minh, sinh ngày 29/3/2014. Tuy nhiên, H không cung cấp được giấy khai sinh để chứng minh đó là con đẻ của mình, việc khai sinh cho cháu Minh, H đã có đơn đề nghị UBND xã P đăng ký nhưng không được chấp nhận. Tòa án và Viện Kiểm sát đã phối hợp xác minh việc sinh con của H thì thấy:

- UBND xã P (nơi bị án H cư trú) xác nhận có nhận được Đơn xin cấp giấy khai sinh cho con ngoài giá thú của Nguyễn Thị H, việc sinh con của H ngoài cơ sở y tế (sinh tại nhà) nên không có giấy chứng sinh. Sau khi nhận đơn, UBND xã P đã cử cán bộ tư pháp đi xác minh việc sinh con của bị án H thì thấy: Ông Phạm Văn L, trưởng thôn khẳng, định cháu Minh không phải do H sinh ra mà là con của con gái bị án H (con gái lớn bị án H sinh năm 1995 và chưa lập gia đình), cán bộ dân số của thôn cũng khẳng định, trong năm 2013 và 2014, bị án H không có tên trong danh sách phụ nữ đang mang thai.

- Xác minh tại Bệnh viện Đa khoa huyện thì bà Ngô Thị T (do bị án cung cấp) là cán bộ khoa Sản xác định: Khoảng tháng 2, 3 năm 2014, con gái bị án H đến Bệnh viện nhờ bà đến nhà giúp H sinh con, bà đồng ý, khi đến nhà bị án H, bà thấy H đã sinh đang nằm cạnh cháu bé, sau đó bà trực tiếp lấy nhau thai từ âm đạo của H; bị án H còn cung cấp thêm sổ khám chữa bệnh tại Bệnh viện Đa khoa huyện L, trong đó bác sỹ khám ngày 18/10/2014 kết luận "đầu vú H có sữa, như vậy H đang nuôi con nhỏ". 

Với những căn cứ còn có mâu thuẫn như trên, xét thấy chưa đủ căn cứ để cấp giấy khai sinh cho con của bị án H, nên UBND xã P đã có thông báo cho H và các cơ quan chức năng biết. Tiếp theo, ngày 02/10/2015, UBND xã P có công văn số 190/CV-UBND gửi Công an huyện L đề nghị điều tra, xác minh, kết luận về quan hệ giữa bị án H và cháu bé H đang đề nghị cấp giấy khai sinh (trưng cầu giám định ADN) để làm căn cứ, tuy nhiên, Công an huyện cho rằng sự việc thuộc thẩm quyền của UBND xã P, không thuộc thẩm quyền điều tra của Công an huyện Lạng Giang.

Vấn đề đặt ra hiện nay là, trong trường hợp vẫn bắt bị án H đi thi hành án thì việc giao các con chưa thành niên của bị án cho tổ chức, cá nhân nào nuôi dưỡng để đảm bảo quyền lợi cho các cháu; trường hợp hoãn thi hành án đối với bị án H thì bắt buộc phải có giấy khai sinh của cháu bé mà do H đang nuôi dưỡng (H cho rằng là con đẻ). Việc cấp giấy khai sinh thuộc trách nhiệm của UBND cấp xã, nhưng nhận thức về điều kiện để được cấp giấy khai sinh của các cơ quan quản lý hộ tịch đang khác nhau mà không biết trách nhiệm giải quyết thuộc về cơ quan nào./.

Lê Đình Luyện- Viện KSND huyện Lạng Giang

 

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:27,933,109
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.14.130.103

    Thư viện ảnh