ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Thứ hai, 23/12/2024 -08:30 AM

Tiếp tục giải quyết hay đình chỉ giải quyết vụ án?

 | 

Nội dung vụ án:

Nguyên đơn chị Lưu Thị Ngọc trình bày: Ngày 25/3/2009 ông Giáp Văn Vui có viết giấy vay của chị số tiền 31.700.000đ có anh Chu Văn Điều và chị Bùi Thị Phương ký làm chứng. Khi vay tiền không thoả thuận lãi suất; ông Vui hẹn đến ngày 26/3/2009 trả tiền cho chị. Chị còn cho ông Vui mượn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để ông Vui vay tiền Ngân hàng. Đến hạn trả nợ chị đã yêu cầu nhưng ông Vui không trả. Nay chị yêu cầu ông Vui trả cho chị 31.700.000đ tiền nợ gốc cùng lãi suất theo quy định. Số tiền này không liên quan đến anh Điều, chị Phương nên anh Điều, chị Phương yêu cầu trả tiền thay cho ông Vui chị không chấp nhận.

Bị đơn ông Giáp Văn Vui trình bày: Tối ngày 25/3/2009 ông cùng vợ chồng anh Điều, chị Phương đến gia đình chị Ngọc để anh Điều trả nợ cho chị Ngọc số tiền 30.000.000đ. Trước đó anh Điều có giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị Ngọc để vay tiền nhưng sau khi anh Điều trả cho chị Ngọc 30.000.000đ, chị Ngọc không giao lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Điều mà yêu cầu anh Điều phải trả thêm 31.700.000đ thì chị Ngọc mới trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do chị Ngọc không tin tưởng anh Điều nên chị Ngọc yêu cầu ông nhận nợ thay cho anh Điều đồng thời viết giấy nhận nợ để chị Ngọc trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà chị đang giữ của anh Điều cho ông để ông giao lại cho anh Điều. Vì tin anh Điều nói hôm sau sẽ vay được tiền để trả cho chị Ngọc nên ông đã đồng ý viết giấy nhận nợ thay cho anh Điều với nội dung ông vay của chị Ngọc 31.700.000đ. Thực tế ông không vay tiền của chị Ngọc, chị Ngọc yêu cầu ông trả tiền ông không nhất trí.

Bản án dân sự sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện G đã giải quyết buộc ông Vui thanh toán trả chị Ngọc 31.700.000đ tiền gốc và 9.224.700đ tiền lãi. Tổng cả gốc và lãi là 40.924.700đ. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Vui có đơn kháng cáo không đồng ý bản án sơ thẩm.

Bản án dân sự phúc thẩm của Toà án nhân dân tỉnh B đã giải quyết không chấp nhận kháng cáo của ông Vui; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ngày 26/6/2013 ông Vui và chị Ngọc đã đến Cơ quan thi hành án dân sự thoả thuận về việc thi hành án; ông Vui đã thanh toán trả tiền cho chị Ngọc; ngày 28/6/2013 chị Ngọc đã có đơn tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án.

Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Vui có đơn đề nghị xem xét lại Bản án dân sự phúc thẩm theo trình tự giám đốc thẩm.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số Toà án nhân dân tối cao đã quyết định: Chấp nhận Quyết định kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân Tối cao. Huỷ Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân huyện G xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Sau khi nhận lại hồ sơ vụ án, ngày 22/2/2015 Toà án nhân dân huyện G đã thụ lý vụ án về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn là chị Lưu Thị Ngọc với bị đơn là ông Giáp Văn Vui. Trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 12/3/2015 chị Ngọc đã có đơn xin rút yêu cầu khởi kiện. Ngày 17/3/2015 ông Vui có ý kiến đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngày 31/3/2015 Toà án nhân dân huyện G đã ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.

Ngày 07/5/2015 ông Vui có đơn gửi Viện KSND huyện G; đồng thời gửi đơn đến Chi cục thi hành án dân sự huyện G đề nghị xem xét và giải quyết trả lại gia đình ông số tiền 37.046.200đ và tiền lãi theo lãi suất Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; bồi thường danh dự nhân phẩm cho ông. Tổng thiệt hại là 200.000.000đ và xin lỗi công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Sau khi nghiên cứu đơn của ông Vui; Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án cũng như nghiên cứu toàn bộ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Viện KSND huyện G có một số ý kiến, quan điểm đối với vụ án này, cụ thể như sau:

Thứ nhất, về thẩm quyền giải quyết đơn:Những yêu cầu, đề nghị của ông Vui nêu trong đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện KSND huyện G nên Viện kiểm sát  làm thủ tục trả lại đơn cho ông Vui.

Căn cứ Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường giải quyết việc bồi thường khi có văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật. Như vậy, trong trường hợp này chưa có văn bản xác định việc thi hành án là trái pháp luật nên đơn của ông Vui không thể coi là đơn khiếu nại về thi hành án và trách nhiệm giải quyết thuộc Cơ quan thi hành án dân sự.

Thứ hai, về việc Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, có hai quan điểm khác nhau.

Quan điểm thứ nhất: Bản án sơ thẩm, phúc thẩm đã giải quyết buộc ông Vui phải thanh toán trả cho chị Ngọc 40.924.700đ; ngoài ra ông Vui còn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, phúc thẩm; ông Vui đã thi hành xong bản án; nhưng hai bản án này đã bị Toà án nhân dân tối cao tuyên huỷ với lý do Toà án căn cứ vào lời khai của chị Ngọc và giấy vay nợ đề tên ông Vui ngày 25/3/2009 để xác định ông Vui vay tiền của chị Ngọc; và buộc ông Vui trả chị Ngọc tiền gốc và lãi là chưa đủ căn cứ.

Khi chị Ngọc có đơn xin rút đơn khởi kiện; ông Vui đã có ý kiến đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, nhưng Tòa án chưa hướng dẫn, giải thích cho ông Vui xem ông Vui có yêu cầu đề nghị gì; để hướng dẫn ông Vui làm thủ tục khởi kiện; để thay đổi địa vị tố tụng ông Vui trở thành nguyên đơn; chị Ngọc là bị đơn;

Do vậy, việc Tòa án căn cứ vào việc chị Ngọc có đơn xin rút đơn khởi kiện để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án mà không xem xét đến ý kiến đề nghị của ông Vui là không đảm bảo quyền lợi cho ông Vui.

Quan điểm thứ hai:

Việc Toà án nhân dân huyện G căn cứ vào đơn xin rút yêu cầu khởi kiện của chị Ngọc để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án là đúng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS; Bản án sơ thẩm và phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, ông Vui tự nguyện thi hành hai bản án trên không có việc Cơ quan thi hành án dân sự huyện G tổ chức cưỡng chế do vậy việc ông Vui làm đơn yêu cầu bồi thường là không có căn cứ; đối với số tiền ông Vui đã thanh toán trả cho chị Ngọc thì ông Vui có quyền khởi kiện vụ án “Kiện đòi tài sản” đối với chị Ngọc tới Toà án nhân dân huyện G để được giải quyết.

Đơn vị nhất trí với quan điểm thứ hai. Do vấn đề đưa ra còn có quan điểm, ý kiến tranh luận khác nhau, nên rất cần các ý kiến tham gia của các đồng chí đối với vụ án dân sự cụ thể này để việc giải quyết vụ án được khách quan, đúng pháp luật./.

Trần Thị Huệ - Viện KSND huyện Lạng Giang

 

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:31,808,941
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:18.225.98.39

    Thư viện ảnh