.

Thứ sáu, 17/05/2024 -17:51 PM

Vướng mắc trong định khung hình phạt vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy”

 | 

Quá trình theo dõi hướng dẫn, giải quyết án ma túy trong những năm qua tôi đưa ra một vụ án ma túy thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát cấp huyện đã được hai cấp xét xử, nhưng còn có vướng mắc trong việc định khung hình phạt cần nêu lên để đồng nghiệp và bạn đọc cùng trao đổi để thống nhất nhận thức.

Vụ án: Nguyễn Thi H, trú ở thôn Chùa, xã Cao Thượng, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang bị truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 BLHS.

Nội dung vụ án được xác định như sau: Buổi sáng ngày 01/1/2010 Nguyễn Thị H được chồng là Giang đưa cho 03 gói ma túy Hêrôin nhờ giữ hộ (Giang là người nghiện ma túy mua về mục đích để sử dụng đã giao ma túy cho H giữ hộ để sử dụng dần). Vào khoảng 10h ngày 01/1/2010, Nguyễn Thị H đang ở nhà thì có đối tượng nghiện là Nguyễn Văn Tuấn gọi điện thoại cho H hỏi “Chị còn hàng không, để cho em một ít?”. Vì biết Tuấn là bạn nghiện ma túy của chồng từ trước nên H biết Tuấn muốn mua ma túy Hêrôin. Do, H đang giữ 03 gói ma túy của chồng nên trả lời Tuấn “Có” và hẹn Tuấn đến khu vực Cây xăng ở phố Bùi- Cao Thượng- Tân Yên- Bắc Giang để H bán ma túy cho Tuấn. Sau đó H lấy xe đạp mang theo 3 gói nhỏ ma túy đến địa điểm đã hẹn. Tại đây, H nhìn thấy Nguyễn Văn Tuấn và Giáp Văn Cường đang đi bộ đến. Đến nơi Tuấn lấy một tờ tiền Pôlime mênh giá 100.000đ đưa cho H để mua ma túy. H nhận tiền rồi lấy từ túi áo ngực đang mặc ra 02 gói ma túy được gói bằng giấy bạc màu trắng đưa cho Tuấn. Ngay sau khi Tuấn mua được 02 gói ma túy thì Cường cũng lấy một tờ tiền Pôlime mệnh giá 100.000đ đưa cho H và nói “Chị đế cho em năm mươi nghìn” H đồng ý nhận tiền rồi lấy một gói ma túy được gói bằng giấy bạc màu trắng đưa cho Cường và trả lại cho Cường tờ tiền 50.000đ, Cường nhận lại tờ tiền 50.000đ, nhưng ngay sau đó lại đưa cho H và nói “Để cho em một gói nữa”. H chỉ mang theo 03 gói ma túy đã bán hết, nhưng nghĩ ở nhà chồng H vẫn còn nên nhận lại 50.000đ của Cường đưa cho và hẹn Cường về nhà H lấy ma túy”.  Ngay sau đó thì lực lượng công an đến phát hiện bắt giữ H thu giữ 780.000đ của H, trong đó có 200.000đ (hai tờ tiền pôlime mệnh giá 100.000đ) là tiền H vừa bán ma túy cho Tuấn và Cường. Thu giữ của Tuấn 02 gói ma túy, của Cường 01 gói ma túy.  

Tại kết luận giám định số 928/PC21 ngày 01/1/2010 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang đã kết luận: Chất cục bột màu trắng ở trong ba gói giấy bạc mày trắng thu giữ của Tuấn và Cường đều là chất ma túy Hêrôin có tổng trọng lượng 0,044 gam.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Thị H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên. Các đối tượng Nguyễn Văn Giang, Nguyễn Văn Tuấn, Giáp Văn Cường đã bị công an huyện Tân Yên xử lý hành chính theo quy định của pháp luật.

 Sau khi Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Yên kết thúc điều tra chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên đã lập cáo trạng truy tố Nguyễn Thị H ra trước Tòa án nhân dân huyện Tân Yên để xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 BLHS.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2010/HSST ngày 26/3/2010 của Tòa án nhân dân huyện Tân Yên đã Áp dụng Khoản 1, 5 Điều 194, Điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46, Điều 30, 33 BLHS.

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Thị H 2 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và phạt bổ sung 3.000.000đ sung công quỹ nhà nước, án hình sự sơ thẩm còn tuyên phần xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo.

Khi kiểm sát Bản án, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang thấy: Các Cơ quan tố tụng huyện Tân Yên tiến hành khởi tố, truy tố, xét xử đối với Nguyễn Thị H về tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người đúng tội. Tuy nhiên  việc truy tố, xét xử Nguyễn Thị H theo Khoản 1 Điều 194 BLHS đến nay có hai quan điểm chưa thống nhất:

Quan điểm thứ nhất cho rằng:Việc truy tố, xét xử Nguyễn Thị H theo khoản 1 Điều 194 là đúng. Vì cho rằng: Nguyễn Thị H mặc dù có bán ma túy cho hai người, nhưng việc bán ma túy xảy ra trong cùng một thời gian, không gian, địa điểm. Mặt khác hai người đến mua ma túy của Nguyễn Thị H đều là con nghiện rủ nhau cùng đi mua ma túy để sử dụng; còn việc Cường mua được một gói ma túy xong, Cường lại hỏi mua tiếp một gói ma túy nữa thì Nguyễn Thị H mới nhận tiền và chưa thực hiện hành vi bán ma túy lần thứ hai cho Cường thì bị bắt giữ. Theo nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo thì việc các Cơ quan tố tụng huyện Tân Yên truy tố, xét xử Nguyễn Thị H theo khoản 1 Điều 194 BLHS là đúng.

 Những người theo quan điểm này còn viện dẫn văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật là tại tiểu mục 8 phần c Thông tư liên ngành số 02/1998/TTLT- TANDTC- VKSNDTC- BCA ngày 5 tháng 8 năm 1998 đã hướng dẫn:

“C. Phải áp dụng tình tiết định khung hình phạt “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm b khoản 2 Điêu 185d BLHS trong các trường hợp sau đây:

…..

- Mua trái phép chất ma túy một lần và bán lại trái phép số lượng chất ma túy đó trong cùng một lúc cho hai người trở lên”. Nếu căn cứ vào hướng dẫn nêu trên thì hành vi của Nguyễn Thị H không thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS.

Quan điểm thứ hai cho rằng:Hành vi của Nguyễn Thị H cần phải được truy tố, xét xử theo điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS mới đúng (Thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS), với lập luận là: Nguyễn Thị H đã bán ma túy cho hai người là Tuấn và Cường. Theo diễn biến nội dung hành vi bán ma túy của Nguyễn Thị H thì Nguyễn Thị H đã hoàn thành việc bán 02 gói ma túy cho Tuấn theo thỏa thuận việc mua bán với Tuấn qua điện thoại trước đó, đủ yếu tố cấu thành cơ bản của tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS. Sau khi bán 02 gói ma túy cho Tuấn xong thì Cường là người cùng đi với Tuấn biết H có ma túy bán nên mới hỏi mua một gói ma túy của H. H đồng ý và thực hiện hành vi nhận tiền và lấy một gói ma túy trong người ra giao cho Cường đồng thời trả lại tiền thừa cho Cường. Như vậy, hành vi giao dịch bán một gói ma túy cho Cường của Nguyễn Thị H cũng đã hoàn thành, đủ yếu tố cấu thành cơ bản của tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS.

Quan điểm thứ hai viện dẫn Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT- BCA-VKSNDTC- TANDTC- BTP ngày 24/12/2007 của liên ngành Bộ công an, Viện kiểm sát tối cao, Tòa án tối cao, Bộ tư pháp. Tại tiểu mục 2.3 phần I Thông tư hướng dẫn: “2.3 Tình tiết “phạm tội nhiều lần” quy định tại khoản 2 các Điều 193, 194, 195, 196, 197, 198, 200, 201 của BLHS được hiểu là đã có từ hai lần phạm tội trở lên (hai lần sản xuất trái phép chất ma túy trở lên, hai lần tàng trữ trái phép chất ma túy trở lên, hai lần bán trái phép chất ma túy trở lên…) mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 điều luật tương ứng, đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự”. Theo hướng dẫn nêu trên thì hành vi phạm tội của Nguyễn Thị H thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS.

*Đối với vụ án nêu trên, sau khi xem xét những ý kiến phân tích lập luận và các căn cứ áp dụng pháp luật, tôi đồng tình với quan điểm thứ hai tức là hành vi của Nguyễn Thị H thuộc tình tiết định khung “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS nên phải được truy tố xét xử theo điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS. Quan điểm này phù hợp có cơ sở khách quan là “diễn biến hành vi khách quan việc H bán ma túy cho Tuấn hoàn toàn độc lập với việc bán ma túy cho Cường”; phù về lý luận cấu thành tội phạm và có căn cứ áp dụng pháp luật là Thông tư số 17/2007/TTLT- BCA-VKSNDTC- TANDTC- BTP ngày 24/12/2007 của liên ngành Bộ công an, Viện kiểm sát tối cao, Tòa án tối cao, bộ tư pháp.

Về những lập luận cũng như căn cứ pháp luật mà những người theo quan điểm thứ nhất đã đưa ra tôi có ý kiến phản biện không đồng tình với quan điểm này như sau:

Thứ nhất: Những người theo quan điểm thứ nhất cho rằng mặc dù Nguyễn Thi H đã bán ma túy cho hai người, nhưng việc bán ma túy cho hai người xảy ra trong cùng một thời gian, không gian, địa điểm và chỉ có một người có quan hệ giao dịch hỏi mua ma túy với bị cáo H. Vì vậy, chỉ coi đó là một lần thực hiện hành vi phạm tội. Lập luận này là không đúng cả về mặt lý luận và thực tiễn vì:

+ Về hành vi khách quan: Nguyễn Thị H đã bán ma túy cho từng người một, xét từng lần Nguyễn Thị H bán ma túy cho Tuấn và Cường thì từng lần đó đều đã hoàn thành và diễn ra hoàn toàn độc lập với nhau (H thực hiện việc bán 02 gói ma túy cho Tuấn xong mới thực hiện giao dịch bán 01 gói ma túy cho Cường).

+ Về cơ sở lý luận và căn cứ áp dụng pháp luật: Các hành vi H bán ma túy cho Tuấn xong rồi thực hiện hành vi bán ma túy cho Cường đều đủ yếu tố cấu thành cơ bản của tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS.

Giả thiết nếu Nguyễn Thị H mới bán ma túy cho Tuấn xong thì bị phát hiện bắt giữ thì H đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS.

Sau khi bán 02 gói ma túy cho Tuấn xong, Nguyễn Thị H lại tiếp tục giao dịch bán một gói ma túy khác cho Giáp Văn Cường. Hành vi này của H hoàn toàn độc lập với hành vi bán ma túy cho Tuấn trước đó và cũng đã thỏa mãn bốn yếu tố cấu thành cơ bản của tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 điều 194 BLHS. Cả hai hành vi trên đều chưa bị xử lý và còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Vì vậy, hành vi phạm tội của Nguyễn Thị H thuộc trường hợp định khung tăng nặng “Phạm tội nhiều lần”.

Thứ hai: Những người theo quan điểm thứ nhất viện dẫn văn bản hướng dẫn pháp luật là Thông tư liên tịch số 02/1998/TTLT- TANDTC- VKSNDTC- BCA ngày 5/8/2998 (Tại mục C gạch đầu dòng thứ 3 làm căn cứ) để đưa ra lý lẽ theo nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo là không đúng vì Thông tư liên tịch này không còn giá trị áp dụng và đã bị Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT- BCA- VKSNDTC- TANDTC- BTP này 24/12/2007 thay thế.

* Trên thực tế quá trình giải quyết vụ án này, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang đã ban hành Kháng nghị bản án hình sự sơ thẩm số 14/2010/HSST ngày 26/3/2010 của Tòa án nhân dân huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm, hủy bản bản án sơ thẩm số 14/2010/KSST ngày 26/3/2010 của Tòa án nhân dân huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang. Giao hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm để truy tố xét xử lại vụ án theo thủ tục chung.

Tuy nhiên, tại phiên tòa HĐXX phúc thẩm đã vận dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang để tuyên Y án sơ thẩm.

Mặc dù vụ án đã khép lại bằng bản án phúc thẩm xong theo tôi vụ án này việc Tòa án phúc thẩm tuyên Y án sơ thẩm đã thật sự đúng chưa? Vẫn còn có nhiều quan điểm trái chiều về định khung hình phạt. Trên thực tế qua theo dõi hướng dẫn giải quyết án về ma túy cấp huyện tôi thấy những vụ án ma túy xảy ra trên địa bàn có vướng mắc tương tự không ít nên nêu vụ án nêu trên để đồng nghiệp và bạn đọc cùng trao đổi nhằm nâng cao nhận thức và vận dụng pháp luật để nâng cao hiệu quả xử lý án ma túy đảm bảo đúng các quy định pháp luật.

Rất mong được nhiều đồng nghiệp và bạn đọc tham gia nêu quan điểm của mình và đóng góp ý kiến./.

Nguyễn văn Thu

 

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:27,921,822
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:18.221.47.203

    Thư viện ảnh