ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Chủ nhật, 24/11/2024 -07:11 AM

Viện kiểm sát nhân dân – Nơi người dân trao gửi niềm tin

 | 

Khi không đồng ý với một quyết định hành chính, hay hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền gửi đơn khởi kiện đến Tòa án để yêu cầu giải quyết. Tuy nhiên, không phải bất kỳ trường hợp nào cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; theo quy định của Luật Tố tụng hành chính, Tòa án chỉ nhận đơn khởi kiện khi vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Nếu Tòa án có căn cứ xác định rằng vụ việc không thuộc thẩm quyền của mình, thì sẽ từ chối thụ lý bằng cách “Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện”, được quy định tại khoản 1 Điều 109 Luật Tố tụng hành chính.

Tuy nhiên, việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện có đúng quy định của pháp luật hay không là một vấn đề cần được quan tâm.

Trong các ngày 10/6 và 16/6/2014, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang nhận được đơn khiếu nại khẩn cấp của ông Nguyễn Văn H ở phường H, thành phố B. Nội dung đơn, ông H khiếu nại Quyết định số 73/2014/QĐ-GQKN ngày 23/5/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang về việc giải quyết khiếu nại của ông H đối với Thông báo số 01/TA-TB ngày 12/5/2014 về việc trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính của ông. Với trách nhiệm và chức năng của ngành Kiểm sát, sau khi nhận đơn của ông H và qua xem xét nội dung đơn, đã phần nào cho thấy nỗi niềm và sự bức xúc của công dân.

Theo nội dung đơn khiếu nại và kiểm tra các tài liệu thu thập thông qua hoạt động kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang nhận thấy:

Ngày 19/3/2014, ông H có đơn khởi kiện ông Dương Quốc K là Chủ tịch UBND phường H, thành phố B, ông H đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang làm rõ hành vi của ông Dương Quốc K đã tự ý nhân danh tổ chức thực hiện nhiệm vụ công vụ không theo quy định của pháp luật trong việc huy động lực lượng phá dỡ 49m2 đất ở của gia đình ông hiện đang sử dụng và trả ngay 49m2 đất bị cưỡng chế cùng các nguyên vật liệu bị tháo dỡ mang đi vào ngày 11/9/2012, đồng thời bồi thường thiệt hại từ việc phá dỡ mái tôn, thu hồi 49m2 đất ở.

Ngày 04/4/2014, Tòa án có Thông báo số 457/TB-TA yêu cầu ông H sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, ghi rõ cụ thể khởi kiện những vấn đề gì, xác định người bị kiện là Chủ tịch UBND phường H hay cá nhân ông Dương Quốc K; ghi rõ số liệu các tài sản, vật liệu bị thiệt hại từ việc cưỡng chế, trị giá tiền và các tài liệu, chứng cứ khác chứng minh cho yêu cầu khởi kiện.

Thực hiện yêu cầu Thông báo của Tòa án, ông H đã có Đơn khởi kiện bổ sung ngày 29/4/2014, ghi rõ khởi kiện Chủ tịch UBND phường H; tài sản thiệt hại từ việc cưỡng chế gồm: nhà xưởng, nguyên vật liệu bằng tôn ốp nan, sắt thép xây dựng, cát, gạch, xi măng, điện nước tổng cộng là 94.837.000đ; thiệt hại từ việc phải ngừng sản xuất kinh doanh trong 19 tháng là 19.000.000đ (có bảng kê chi tiết gửi kèm theo).

Ngày 12/5/2014, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang có Thông báo trả lại Đơn khởi kiện số 01/TB-TA cho ông H, với lý do thời hiệu khởi kiện đã hết và chưa đủ điều kiện khởi kiện.

Không đồng ý việc Tòa án ra Thông báo trả lại đơn khởi kiện, ông H đã làm đơn khiếu nại đến Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang đề nghị xem xét giải quyết.

Tại Quyết định số 73/2014/QĐ-GQQKN ngày 23/5/2014, Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang giải quyết đơn khiếu nại của ông H, đã giữ nguyên Thông báo số 01/TB-TA ngày 12/5/2014 về việc trả lại đơn khởi kiện cho ông H; ông vẫn không đồng ý và tiếp tục có đơn khiếu nại đến Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang.

Xét thấy: Theo Thông báo sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện số 457/TB-TA ngày 04/4/2014 của Tòa án; ông H đã viết lại đơn khởi kiện ghi ngày 29/4/2014 có đầy đủ nội dung, đủ điều kiện khởi kiện theo yêu cầu của Tòa án và nộp cho Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang.

Yêu cầu khởi kiện của ông H là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, nhưng Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện của ông H là thực hiện không đúng quy định tại điểm a khoản 3 Điều 107, Điều 111 Luật tố tụng hành chính.

Về thời hiệu khởi kiện: Ông H trình bày, theo Thông báo số 44/TB-UBND ngày 07/9/2012 của UBND phường H, thì ngày 11/9/2012 các lực lượng chức năng của phường H đã tổ chức tháo dỡ tài sản của gia đình ông là 49m2 mái lợp tôn và chuyển tài sản về UBND phường, đồng thời thu hồi 49m2 đất của gia đình ông; nên ông đã làm đơn khiếu nại và được UBND phường H giải quyết. Do ông không đồng ý với giải quyết khiếu nại của UBND phường, nên ngày 26/3/2013 ông làm đơn khởi kiện hành vi của Chủ tịch UBND phường H đến Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang. Sau khi Tòa án nhận đơn khởi kiện của ông H, Tòa án đã nhiều lần ra Thông báo yêu cầu ông sủa đổi, bổ sung đơn khởi kiện và ông đã liên tục thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, cung cấp tài liệu, chứng cứ đầy đủ theo yêu cầu của Tòa án. Như vậy, tính từ ngày 11/9/2012 đến ngày 26/3/2013 ông H có đơn khởi kiện lần đầu, là nằm trong thời hiệu khởi kiện 1 năm theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 104 Luật tố tụng hành chính; theo qui định từ ngày 27/3/2013 đến ngày 19/3/2014 là thời gian ông H liên tục thực hiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, cung cấp tài liệu, chứng cứ đầy đủ theo yêu cầu của Tòa án không được tính vào thời hiệu khởi kiện.

Việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho ông H và Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang giải quyết đơn khiếu nại của ông H, đã giữ nguyên Thông báo số 01/TB-TA ngày 12/5/2014 về việc trả lại đơn khởi kiện, với lý do thời hiệu khởi kiện đã hết, là thực hiện không đúng qui định tại điểm a khoản 2 Điều 104 Luật tố tụng hành chính và khoản 3 Điều 13 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011, của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số điều của Luật tố tụng hành chính; tại khoản 3 Điều 13 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP có nêu "Thời gian thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện không tính vào thời hiệu khởi kiện, ngày khởi kiện vẫn được xác định là ngày gửi đơn khởi kiện và xác định theo hướng dẫn tại Điều 13 của Nghị quyết này".

Bởi vậy, ngày 04/7/2014 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang ban hành kiến nghị số 02/KN-VKS-P12 kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang: chấp nhận đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn H về việc khiếu nại Quyết định số 73/2014/QĐ-GQQKN ngày 23/5/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang; chỉ đạo Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang nhận lại Đơn khởi kiện của ông Nguyễn Văn H để thụ lý, giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật; đồng thời tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm nghiêm túc đối với các Thẩm phán đã để xẩy ra thiếu sót, vi phạm nêu trên, gây bức xúc cho công dân.

Kết quả kiến nghị đã đem lại niềm tin cho công dân khi thực hiện quyền khởi kiện của mình ra trước Tòa án. Thông qua việc kiến nghị này, đề nghị Viện kiểm sát các huyện, thành phố cần tăng cường công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính, kinh doanh thương mại, lao động nói chung và công tác kiểm sát việc Tòa án nhận đơn, trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính, kinh doanh thương mại, lao động nói riêng ngày càng tốt hơn, hạn chế những thiếu sót, vi phạm tương tự xảy ra.

Hoàng Đức Trình

 

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:31,438,416
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:18.188.119.67

    Thư viện ảnh