Theo quy định tại Khoản 1 và 2 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của luật này, nghĩa là khi tổ chức đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam, nữ kết hôn. Đại diện cơ quan đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì đại diện cơ quan đăng ký kết hôn trao Giấy chứng nhận kết hôn cho hai bên. Mọi nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của luật này đều không có giá trị pháp lý. Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Theo tinh thần Nghị quyết 35 được Quốc hội thông qua ngày 09 tháng 6 năm 2000 thì kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Tuy nhiên trong thực tiễn giải quyết các vụ án Hôn nhân gia đình việc xác định quan hệ hôn nhân hợp pháp còn nhiều vướng mắc, dưới đây là một ví dụ.
Nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1973 và anh Lê Văn C, sinh năm 1972, kết hôn năm 1993, trước khi cưới được tự do tìm hiểu, tự nguyện, được tổ chức cưới theo phong tục tập quán. Theo chị M khai khi kết hôn có đăng ký tại UBND phường H, thành phố B theo quy định của pháp luật. Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu hạnh phúc, đến năm 2009 thì phát sinh mẫu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục sống chung đề nghị Tòa án cho ly hôn. Khi ly hôn chị M đề nghị để anh C nuôi con chung là cháu Lê Trung H, sinh năm 1997 vì từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay cháu H ở với anh C, chị sẽ có trách nhiệm với cháu. Về tài sản chung và công nợ chung tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị M cung cấp 01 bản phô tô giấy chứng nhận kết hôn do UBND phường H cấp ngày 30/11/1993 (không có bản chính do thất lạc).
Quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành lấy lời khai anh Lê Văn C, anh C thừa nhận việc kết hôn, phát sinh mẫu thuẫn như chị M khai. Anh C đồng ý ly hôn và đồng ý nuôi con chung là cháu Lê Trung H. Về tài sản chung và công nợ chung tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tòa án xác minh với UBND phường H, thành phố B, kết quả UBND phường H xác nhận không còn sổ gốc do đó không thể xác định được chị M và anh C có đăng ký kết hôn tại UBND phường hay không.
Trong quá trình giải quyết vụ án có hai quan điểm về việc áp dụng pháp luật Hôn nhân gia đình, cụ thể như sau:
- Quan điểm thứ nhất:Hai vợ chồng chị Nguyễn Thị M và anh Lê Văn C mặc dù thừa nhận có đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố B nhưng không xuất trình được Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, kết quả xác minh tại UBND phường cũng không xác định được chị M và anh C có đăng ký kết hôn hay không nên không có căn cứ xác định hai người là vợ chồng. Do vậy cần căn cứ Nghị quyết số 35 của Quốc hội, khoản 1 Điều 11 Luật hôn nhân gia đình xử không công nhận vợ chồng.
- Quan điểm thứ hai: Vợ chồng chị M và anh C đều thừa nhận có có đăng ký kết hôn tại UBND phường H theo quy định của pháp luật, như vậy là thừa nhận họ có trách nhiệm với nhau theo quy định của pháp luật về quan hệ hôn nhân hợp pháp, trong đó có quan hệ về tài sản, và cũng chính là trường hợp “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện mà đương sự bên kia đưa ra” như quy định tại Khoản 2, Điều 80 Bộ luật tố tụng dân sự về trường hợp những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh. Do vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị M và anh Lê Văn C là hôn nhân hợp pháp cần áp dụng Điều 89, 91, 92 Luật Hôn nhân gia đình xử cho ly hôn.
Trên đây là vướng mắc trong thực tiễn giải áp dụng quy định của pháp luật Hôn nhân gia đình; rất mong nhận được ý kiến trao đổi của các đồng chí, đồng nghiệp.
Trần Thị Bình