Hiện nay, tình trạng ly hôn giả, kết hôn giả để sinh con thứ 3, tẩu tán tài sản, trốn tránh trách nhiệm thi hành án, xuất ngoại, lấy chồng nước ngoài, nhập quốc tịch nước ngoài trái phép…ngày càng gia tăng. Nhiều cặp vợ chồng lấy cái "cớ" đó để đạt được lợi ích riêng cho gia đình mình. Dưới dây là một vụ án cụ thể vợ chồng ly hôn giả nhằm trốn tránh thi hành án phạt tù.
Anh Luyện kết hôn với chị Sáng năm 1993, trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện B. Vợ chồng có 02 con chung là cháu Lê Thị Huệ, sinh 1996 và cháu Lê Trung Tuyến 1998. Ngày 24/4/2011 anh Luyện phạm tội đánh bạc và bị Tòa án nhân dân tỉnh A xử phạt 24 tháng tù giam.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, do anh Luyện muốn được Tòa án cho hoãn thi hành án nên đã bàn bạc với chị Sáng xin ly hôn giả. Về con chung, mỗi người nhận nuôi 01 con để tạo ra lý do anh là lao động chính duy nhất trong gia đình. Ngày 07/5/2013, anh Luyện và chị Sáng làm đơn xin thuận tình ly hôn và đã được Tòa án nhân dân huyện B giải quyết cho ly hôn tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 73/2012/QĐST- HNGĐ ngày 16/5/2012.
Từ lý do đó, anh Luyện đã được Tòa án nhân dân huyện B cho hoãn thi hành án 03 lần, trong đó có 02 lần được hoãn với lý do người bị kết án là lao động chính trong gia đình hiện đang nuôi con nhỏ và chăm sóc mẹ già.
Thông qua công tác kiểm tra liên ngành của cơ quan Công an- Viện kiểm sát- Tòa án- Mặt trận tổ quốc tỉnh A trong công tác hoãn thi hành án phạt tù tại Trại tạm giam Công an tỉnh A phát hiện trường hợp hoãn thi hành án phạt tù đối với trường hợp anh Luyện là không có căn cứ. Tại kết luận kiểm tra liên ngành số 999/KLKT- LN ngày 18/6/2013, đoàn kiểm tra yêu cầu Tòa án huyện B ra quyết định thi hành án đối với anh Luyện theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở yêu cầu nêu trên, Tòa án nhân dân huyện B đã ra Quyết định thi hành án phạt tù số 19/QĐ- CA ngày 01/3/2013, buộc anh Luyện phải thi hành án phạt tù.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A đã tiến hành kiểm tra, xác minh việc ly hôn của vợ chồng anh Luyện, chị Sáng. Kết quả điều tra, xác minh: Trước và sau khi ly hôn anh Luyện, chị Sáng không có mâu thuẫn, vợ chồng vẫn yêu thương nhau, cùng ăn ở, sinh hoạt một nhà, chung sống hòa thuận, cùng nhau nuôi dưỡng và chăm sóc con cái, mẹ già. Song, vợ chồng đã tạo ra việc xin ly hôn giả với mục đích là để cho anh Luyện được hoãn thi hành án. Việc xin ly hôn của vợ chồng anh Luyện, chị Sáng và việc giải quyết cho vợ chồng thuận tình ly hôn của Tòa án nhân dân huyện B nêu trên đã vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 4 và khoản 1 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
Sau khi phát hiện được vi phạm nêu trên, ngày 17 tháng 9 năm 2013 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A đã ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 01/2014/QĐ- UBTP ngày 24/02/2014, Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh A đã hủy toàn bộ Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo quy định của pháp luật.
Thông qua vụ án trên cho thấy, khi thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình, cán bộ, Kiểm sát viên cần lưu ý phát hiện các sai phạm của Tòa án trong việc giải quyết cho đương sự ly hôn trái pháp luật, để thực hiện việc kiến nghị, kháng nghị. Mặt khác, cần kịp thời phát hiện các sơ hở, thiếu sót, vi phạm của Ủy ban nhân dân cấp xã trong công tác quản lý nhà nước về đăng ký kết hôn để ban hành kiến nghị nhằm hạn chế, không để những vi phạm, thiếu sót tương tự xảy ra.
Nguyễn Đức Sơn