Trong những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, hoạt động tín dụng cả ở trong và ngoài khu vực ngân hàng phát triển nhanh và mạnh mẽ. Bên cạnh mặt tích cực thì tình hình tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại có liên quan đến tín dụng đen và vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động ngân hàng, doanh nghiệp còn nhiều diễn biến phức tạp, tính chất ngày càng nghiêm trọng, gây mất trật tự an toàn xã hội, xâm phạm lợi ích hợp pháp của người dân, gây thiệt hại đến nền kinh tế đất nước, làm ảnh hưởng đến chính sách kinh tế xã hội và giảm hiệu lực quản lý của nhà nước.
Trong thời điểm từ ngày 1/12/2011 đến ngày 31/5/2013, trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, tình hình tranh chấp, vi phạm pháp luật và tội phạm liên quan đến hoạt động cho vay với lãi suất cao ngoài sự quản lý của Nhà nước (tín dụng đen) diễn ra phức tạp. Các vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản, vụ án hình sự liên quan đến hoạt động tín dụng đen phát sinh nhiều và nhìn chung đều có một số đặc điểm sau: Là hoạt động giao dịch ngầm, thường cho vay theo kiểu tín chấp, không có tài sản thế chấp cầm cố; hoặc có thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không chứng thực, không đăng ký thế chấp bằng giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật. Do lãi suất cao, cho nên nhiều người hám lời đã cho vay với số tiền lớn bất chấp rủi ro. Thủ tục cho vay thường đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng khiến nhiều người đã huy động tiền dưới hình thứcnày. Đối tượng vay mượn tiền, tài sản thường tạo vỏ bọc sang trọng, giàu có để tạo niềm tin, huy động vốn với lý do kinh doanh, nhưng thực tế lại sử dụng vào mục đích bất hợp pháp; vay của người sau để trả cho người đã vay trước. Ban đầu người đi vay trả lãi đều, sòng phẳng và giữ uy tín, tìm mọi cách che đậy mục đích vay tiền nhằm cố gắng vay được tiền của càng nhiều người càng tốt sau đó khi không có khả năng thanh toán nợ thì chây ì không trả, bỏ trốn. Thủ đoạn của hình thức tín dụng đen là: Khi lập hợp đồng vay tài sản đại đa số các bên cho nhau vay chỉ bằng một giấy biên nhận, không ghi mức lãi suất trong giấy biên nhận mà chỉ có thỏa thuận miệng. Trên thực tế các bên cho nhau vay với lãi suất rất cao, hàng tháng khi người vay không trả được tiền lãi thì tiền lãi lại được nhập vào gốc để tính tiền lãi của tháng tiếp theo (lãi mẹ đẻ lãi con) và người cho vay bắt người vay phải viết giấy biên nhận vay tiền mới dẫn đến việc người vay không có khả năng trả nợ. Hiện nay, trong khi lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định là 9%/năm, thì lãi suất tín dụng đen vẫn phổ biến ở mức 2.500 đồng/1 triệu đồng/ngày (90%/năm) hoặc cao hơn nữa. Hầu hết trong các vụ án liên quan đến hoạt động tín dụng đen, người cho vay là người nắm toàn bộ các tài liệu, chứng cứ, còn người vay tiền do nhu cầu cần tiền và thiếu hiểu biết pháp luật nên dễ dàng đáp ứng những yêu cầu của người cho vay. Khi xảy ra tranh chấp người cho vay khởi kiện ra tòa có chứng cứ còn người vay tiền hầu hết đều không có chứng cứ chứng minh được là mình đã vay, đã trả lãi với mức lãi suất rất cao và trong số tiền người cho vay khởi kiện bao gồm cả tiền gốc và tiền lãi mẹ đẻ lãi con, hoặc người vay tiền trình bày bị ép buộc ký giấy biên nhận nợ gồm cả tiền gốc cộng lãi, nhưng không có chứng cứ chứng minh. Nên khi xét xử Tòa án thường chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người cho vay, ý kiến của người vay không được chấp nhận vì không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh.Tín dụng đen được thể hiện ở nhiều hình thức như hụi, họ, cho vay, cầm đồ, thế chấp, vận chuyển tiền gửi. Hình thức hoạt động này gây hậu quả rất nghiêm trọng và kéo theo nhiều hệ lụy, kinh tế, tiền và tài sản của nhiều cá nhân, tổ chức, ngân hàng bị chiếm đoạt với số lượng lớn, kìm hãm sản xuất; gây bất ổn và xâm phạm tới trật tự xã hội, nhất là khi con nợ bỏ trốn hoặc mất khả năng trả nợ đã làm phát sinh nhiều hành vi vi phạm pháp luật.
Trong thời điểm nêu trên Tòa án 2 cấp thụ lý: 568 vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng vay tài sản ( 516 vụ sơ thẩm, 52 vụ phúc thẩm); 66 vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng (63 vụ sơ thẩm, 3 vụ phúc thẩm). Điển hình một số vụ có tranh chấp hợp đồng vay tài sản với số lượng vay nợ lớn, lãi suất cao như: Vụ vợ chồng chị Nguyễn Thị Hiển, anh Vũ Trí Định cho vợ chồng anh Nguyễn Văn Chuyên và chị Nguyễn Thị Yến ở huyện Lục Nam vay 1.010.000 đồng; vụ vợ chồng chị Thân Thị Tám, anh Dương Văn Mạnh cho vợ chồng anh Vi Văn Hoan, chị Dương Thị Mỹ Giang ở thành phố Bắc Giang vay 1.720.000.000 đồng…
Về tội phạm liên quan đến tín dụng đen, Cơ quan điều tra đã phát hiện, khởi tố 126 vụ/145 bị can, trong đó: tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 89 vụ/90 bị can; tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 31 vụ/34 bị can; tội Bắt giữ người trái pháp luật 02 vụ/06 bị can; tội Cưỡng đoạt tài sản 02 vụ/09 bị can; tội Vi phạm quy định cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng 01 vụ/05 bị can. Một số vụ điển hình như: Vụ Nguyễn Thị Hiệp ở thành phố Bắc Giang thông qua hình thức huy động vốn và cho vay đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản của 22 bị hại với số tiền gần 70 tỷ đồng và 28.000 USD; vụ Lý Thị Hoạt ở huyện Sơn Động chiếm đoạt của 8 bị hại số tiền trên 16 tỷ đồng; vụ vợ chồng Nguyễn Thị Hồng, Dương Quang Tuấn ở huyện Hiệp Hòa lừa đảo chiếm đoạt tài sản của 18 bị hại số tiền trên 9 tỷ đồng; vụ vợ chồng Nguyễn Văn Thoa, Nguyễn Thị Thu Hà ở huyện Hiệp Hòa lừa đảo chiếm đoạt tài sản của nhiều bị hại với số tiền lên đến hàng chục tỷ đồng; vụ Hoàng Hữu Thảo ở thành phố Bắc Giang cùng đồng bọn cướp tài sản từ việc đòi nợ thuê chiếm đoạt của 05 bị hại với tổng số tiền 92.101.000 đồng…
Vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động Ngân hàng xảy ra trên địa bàn chủ yếu là các hành vi làm trái quy định của Nhà nước trong hoạt động cho vay, bảo lãnh, thế chấp tài sản như: Việc thẩm định hồ sơ vay vốn không đúng quy định, đề xuất cho vay đối với các khách hàng không đủ điều kiện vay vốn; không có tài sản bảo đảm cho các món vay; không thực hiện việc kiểm tra thực tế đối với tài sản hình thành trên vốn vay; không kiểm tra việc sử dụng vốn vay sau khi giải ngân; cán bộ Ngân hàng câu kết với các đối tượng bên ngoài Ngân hàng để lừa đảo chiếm đoạt tài sản; các đối tượng (chủ doanh nghiệp) lợi dụng sơ hở, thiếu trách nhiệm, hành vi làm trái quy định của cán bộ Ngân hàng để tạo lập hồ sơ vay và chiếm đoạt tiền của Ngân hàng…
Tranh chấp, vi phạm, tội phạm phát sinh chủ yếu do những nguyên nhân chính sau đây:
Nền kinh tế thị trường phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động tín dụng vay và cho vay; nhu cầu về vốn gia tăng mạnh mẽ. Bên cạnh đó, sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động tín dụng (các hoạt động vay, cho vay, cầm đồ, hụi họ...), đối với các tổ chức tín dụng chưa được chặt chẽ. Hệ thống pháp luật về quản lý tiền tệ, tín dụng ngân hàng còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu về quản lý nhà nước trong lĩnh vực này; quy định của BLHS và các văn bản hướng dẫn xử lý tội phạm liên quan đến tín dụng đen, tội phạm ngân hàng còn nhiều bất cập , khó vận dụng đã tác động không nhỏ đến công tác đấu tranh phòng chống các loại tội phạm này.
Thực tiễn đời sống của nhân dân; nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường giai đoạn phát triển mới... mà nhu cầu về vốn trong nhân dân tăng mạnh nhưng không có khả năng tiếp cận được nguồn vốn từ Nhà nước và các tổ chức tín dụng do không có tài sản để thế chấp theo yêu cầu của Ngân hàng, không đủ điều kiện để vay tiền của Ngân hàng, thủ tục rườm rà... Chính sách huy động và quản lý các nguồn vốn nhàn rỗi, dư thừa trong nhân dân của Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng, ngân hàng còn chưa hợp lý, còn nhiều bất cập; hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại nguồn vốn nhà nước hoạt động kinh doanh còn yếu tố hành chính quan liêu, chưa công khai, minh bạch... Hệ thống ngân hàng không đáp ứng nhu cầu về vốn cho cá nhân, doanh nghiệp, không có khả năng thu hút, động viên nguồn vốn trong nhân dân để cung cấp cho thị trường là nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của loại hình tín dụng đen trong thời gian vừa qua.
Tín dụng đen là lĩnh vực hấp dẫn đối với những người kinh doanh trong lĩnh vực này, vì lợi nhuận cao, không phải chịu thuế và sự quản lý của các cơ quan chức năng. Việc vay và cho vay dễ dàng, thuận tiện. Người cho vay lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người có nhu cầu vay vốn để cho vay với lãi suất cao nhằm mục đích thu lợi bất chính. Với lãi suất hấp dẫn cao hơn nhiều lần so với lãi suất của Ngân hàng đã đánh vào lòng tham của những người có tiền nên họ không gửi tiền vào Ngân hàng để hưởng lãi mà cho các đối tượng bên ngoài vay. Người đi vay sử dụng không đúng mục đích vay, làm ăn phi pháp, bị thua lỗ hoặc cho người khác vay lại với mức lãi suất cao hơn, sau đó không thu hồi được vốn dẫn đến vỡ nợ.
Do tác động của khủng hoảng tài chính, lạm phát, suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế trong nước suy giảm, hoạt động đầu tư, thương mại và sản xuất kinh doanh trì trệ kéo theo những khó khăn trong hoạt động tài chính, ngân hàng nên vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kinh tế nói chung và lĩnh vực ngân hàng nói riêng có chiều hướng gia tăng. Một số ngân hàng, vì sức ép lợi nhuận, sức ép thành tích đã nới lỏng điều kiện tín dụng, không tuân thủ nghiêm túc một số trình tự, thủ tục, quy định cho vay; cho vay không có tài sản đảm bảo hoặc tài sản đảm bảo không đủ thủ tục pháp lý. Việc xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật, cơ chế, chính sách quản lý đối với hoạt động tiền tệ, ngân hàng còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, công nghệ thông tin ngày càng hiện đại, hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển nhanh, đa dạng, phức tạp và tình hình tham nhũng, tội phạm cũng ngày càng tinh vi. Một số cán bộ ngân hàng suy thoái, lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành chức trách, nhiệm vụ vì tư lợi cố ý làm trái, chiếm đoạt tiền của các tổ chức tín dụng. Công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, mặc dù đã có nhiều đổi mới và chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn hạn chế trong việc phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng, tiêu cực và tội phạm; nhiều vụ việc phát sinh không được phát hiện kịp thời. Việc phối hợp, trao đổi thông tin giữa cơ quan bảo vệ pháp luật với các đơn vị thanh tra, giám sát ngân hàng có thời điểm chưa được kịp thời, nhất là trong việc phối hợp thu hồi tài sản thất thoát, trao đổi thông tin, kinh nghiệm và các biện pháp phòng, chống tham nhũng, tội phạm.
Do thực hiện tốt công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại và công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự liên quan đến tín dụng đen và ngân hàng, ngành kiểm sát Bắc Giang đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự kinh tế, tạo môi trường lành mạnh cho phát triển kinh tế xã hội tại địa phương.
Viện kiểm sát đã thực hiện tốt thẩm quyền được pháp luật quy định trong tố tụng dân sự như quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, tham gia các phiên toà, phiên họp, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự đã góp phần chấn chỉnh những thiếu sót, vi phạm của các chủ thể tham gia tố tụng dân sự, đảm bảo cho việc giải quyết các vụ, việc dân sự của Toà án kịp thời, có căn cứ, đúng pháp luật ; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân ; trong kỳ báo cáo đã kiểm sát thụ lý: 568 vụ, việc dân sự ; kiểm sát 187 bản án, 131 quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, 92 quyết định đình chỉ, 61 quyết định tạm đình chỉ ; kiểm sát thụ lý 66 vụ tranh chấp hợp đồng tín dụng ; kiểm sát 20 bản án, quyết định, 14 quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự. Công tác kiểm sát việc giải quyết án dân sự, kinh doanh thương mại liên quan đến tín dụng đen đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là trong điều kiện Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi tạo cơ sở pháp lý cho Viện kiểm sát tham gia sâu rộng hơn vào kiểm sát hoạt động giải quyết các vụ việc này. Cán bộ, Kiểm sát viên được giao thực hiện công tác kiểm sát án dân sự đã nhận thức đúng vai trò quan trọng của công tác kháng nghị. Do vậy, số lượng và chất lượng kháng nghị từng bước được nâng lên. Thông qua công tác kiểm sát, Viện kiểm sát 2 cấp phát hiện được nhiều vi phạm của Tòa án như: Việc áp dụng mức lãi suất, việc xác định thời gian phải chịu lãi để tính số tiền lãi các bên phải thanh toán cho nhau, giải quyết án phí...,ban hành được 09 kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với những bản án, quyết định giải quyết án tranh chấp hợp đồng vay tài sản của Tòa án, kháng nghị của Viện kiểm sát đều được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận. Đối với công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, Viện kiểm sát 2 cấp đã chủ động phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng tập trung giải quyết được một số vụ án lớn, trọng điểm, phức tạp liên quan đến hoạt động tín dụng đen và tội phạm về tín dụng, ngân hàng. Tiến độ và chất lượng giải quyết án dần được nâng lên. Các trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố điều tra, truy tố, xét xử đều đảm bảo kịp thời, có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai, không bỏ lọt tội phạm, không có trường hợp nào Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trên, còn có những tồn tại, hạn chế sau: Việc nghiên cứu, thiết lập hồ sơ kiểm sát; công tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án của một số Kiểm sát viên chưa thực hiện tốt nên không nắm chắc nội dung vụ án, không phát hiện kịp thời những vi phạm thiếu sót của Tòa án trong việc thực hiện các thủ tục tố tụng, nội dung giải quyết vụ án dẫn đến việc không kháng nghị được sau đó vụ án bị Viện kiểm sát cấp phúc thẩm kháng nghị hoặc bị đương sự kháng cáo, bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy, sửa bản án. Việc gửi phiếu kiểm sát, sao gửi án văn, quyết định cho Viện kiểm sát cấp trên còn chậm hoặc không gửi, dẫn đến việc khi phát hiện vi phạm của Tòa án thì đã hết thời hạn kháng nghị. Về công tác kiểm sát bản án, quyết định: Việc nghiên cứu còn chưa sâu, chưa nhận diện được các dạng vi phạm để thực hiện công tác kháng nghị. Về công tác kháng nghị, một số đơn vị Viện kiểm sát cấp huyện thực hiện chưa nghiêm túc chỉ thị số 04/CT- VKSTC- VPT1 ngày 17/5/2012 của Viện trưởng VKSNDTC về công tác kháng nghị vẫn còn nhiều vụ án bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy, sửa án sơ thẩm đều có Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nhưng không phát hiện được để kháng nghị; số lượng và chất lượng kháng nghị của một số đơn vị còn hạn chế. Về công tác quản lý, chỉ đạo điều hành, phòng nghiệp vụ còn chưa kịp thời thông báo rút kinh nghiệm cho các đơn vị Viện kiểm sát cấp huyện những vụ án bị hủy, sửa. Đối với công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, do làm chưa tốt công tác kiểm sát điều tra nên một số vụ án phải gia hạn điều tra, trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nhiều lần vì các lý do vi phạm tố tụng, khởi tố, điều tra chưa đúng tội danh.... Chưa tìm ra nguyên nhân làm phát sinh vi phạm, tội phạm, nhất là các loại vi phạm, tội phạm liên quan đến tín dụng đen và tín dụng, ngân hàng để phối hợp với các cơ quan hữu quan có biện pháp phòng ngừa, nên tội phạm vẫn còn phát sinh và tiềm ẩn.
Công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng liên quan đến hoạt động tín dụng đen trong những năm qua còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, chủ yếu do một số nguyên nhân sau:
Tình hình vi phạm, tội phạm về tín dụng, ngân hàng có nhiều diễn biến mới, phức tạp. Do hệ thống pháp luật đang từng bước sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng đang từng bước củng cố năng lực để thực thi pháp luật, nên các đối tượng đã khai thác triệt để những kẽ hở này để vi phạm. Việc phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm về ngân hàng rất khó khăn do phương thức, thủ đoạn của loại tội phạm này ngày một tinh vi hơn, nhằm đối phó với các cơ quan chức năng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa rõ ràng, chế tài chưa đủ mạnh để răn đe, còn nhiều lỗ hổng để các đối tượng “lách luật”. Mặt khác, tài chính, tín dụng, Ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm, phát sinh nhiều nghiệp vụ phức tạp, nhưng Bộ luật hình sự chỉ có một điều luật quy định xử lý vi phạm trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (Điều 179), các lĩnh hoạt động nghiệp vụ khác như đầu tư, chuyển tiền, thanh toán, bảo lãnh chưa được Luật hình sự điều chỉnh, nên khi xảy ra tội phạm các cơ quan tố tụng khó khăn, vướng mắc trong việc vận dụng. Hiện tại chưa có văn bản hướng dẫn như thế nào là hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng qui định tại Điều 179 Bộ luật hình sự. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ( Điều 139), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140), tội cho vay nặng lãi (Điều 163) và một số tội phạm liên quan đến chức vụ quyền hạn quy định trong BLHS còn gặp nhiều khó khăn bất cập khi áp dụng trong thực tiễn; việc phân biệt để xử lý giữa trách nhiệm hình sự và dân sự còn gặp không ít khó khăn. Bộ luật dân sự quy định về hợp đồng vay tài sản còn chưa cụ thể chặt chẽ, còn kẽ hở để các đối tượng lách luật. Lĩnh vực tài chính tín dụng, ngân hàng là lĩnh vực rộng lớn, phức tạp và có rất nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh lại thường xuyên thay đổi bổ sung, vì vậy đòi hỏi cán bộ tham gia vào công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực này phải có trình độ cao và kinh nghiệm thực tiễn. Nhưng thực trạng cán bộ hiện nay vừa thiếu về số lượng; trình độ, kiến thức về nghiệp vụ tài chính- kế toán của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn hạn chế, không được tập huấn thường xuyên nên khi giải quyết các vụ án trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng gặp nhiều vướng mắc, khó khăn.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát các vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, hình sự liên quan đến hoạt động tín dụng đen, Viện kiểm sát cần phải làm tốt những nội dung sau:
Đối với công tác kiểm sát án dân sự, kinh doanh thương mại
Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị đối với công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự: Bố trí sắp xếp đủ cán bộ, Kiểm sát viên tương xứng với số lượng công việc; phân công cán bộ, Kiểm sát viên có tính chuyên khâu, có trình độ am hiểu về pháp luật dân sự; đáp ứng cơ sở vật chất , trang thiết bị phục vụ công tác; đề cao vai trò, trách nhiệm của của Kiểm sát viên trong kiểm sát việc tuân theo pháp luật, phát hiện vi phạm để kháng nghị, kiến nghị; tăng cường hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ trong việc thực hiện công tác kiểm sát giải quyết các các vụ, việc dân sự. Trong kế hoạch, chương trình công tác năm phải đề ra chỉ tiêu kháng nghị, kiến nghị nói chung và các vụ, việc dân sự, kinh doanh thương mại liên quan đến hoạt động tín dụng đen nói riêng; xác định đây là chỉ tiêu để đánh giá kết quả công tác kiểm sát án dân sự. Viện kiểm sát hai cấp tỉnh và huyện cần tiếp tục tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm để tiếp tục lựa chọn những vụ án, nhất là những vụ án dân sự, kinh doanh thương mại có liên quan đến hoạt động tín dụng đen, tín dụng ngân hàng mang tính chất phổ biến, có vi phạm pháp luật thông qua việc nghiên cứu hồ sơ tham gia phiên tòa, có nhiều vấn đề cần rút kinh nghiệm để tổ chức các phiên tòa dân sự rút kinh nghiệm, nhằm nâng cao kỹ năng của Kiểm sát viên làm công tác này. Xây dựng được mối quan hệ phối hợp tốt với cơ quan Tòa án trong việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 và các văn bản hướng dẫn. Tăng cường phối hợp, trao đổi giữa Viện kiểm sát cấp trên và Viện kiểm sát cấp dưới trong trao đổi thông tin vi phạm, đặc biệt là các vi phạm liên quan đến các vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản với mức lãi suất cao và các tranh chấp hợp đồng tín dụng không đúng theo quy định của pháp luật. Đối với những vụ việc thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm, Viện kiểm sát cần thông báo và yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tiếp tục thực hiện việc thông báo rút kinh nghiệm về những thiếu sót, tồn tại trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại có liên quan đến hoạt động tín dụng đen. Phòng nghiệp vụ- Viện kiểm sát tỉnh phải tổng hợp những vụ án bị cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm sửa án hoặc hủy án của các huyện, thành phố mà Viện kiểm sát cùng cấp không phát hiện được vi phạm để thông báo rút kinh nghiệm chung trong toàn ngành. Về công tác tổng kết, hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh cần tiếp tục có những chuyên đề tổng kết về thực tiễn hoạt động kiểm sát của công tác kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại có liên quan đến hoạt động tớn dụng đen. Đồng thời, cần tăng cường công tác tập huấn chuyên sâu, sơ kết việc thực hiện các văn bản pháp luật quan trọng như: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, Bộ luật dân sự năm 2005, Luật các tổ chức tín dụng…để Viện kiểm sát cấp huyện nắm vững các văn bản pháp luật và vận dụng thống nhất. Mặt khác, tạo điều kiện cho các địa phương có điều kiện trao đổi nghiệp vụ, những khó khăn vướng mắc nhằm thúc đẩy công tác kiểm sát đối với loại án này đạt kết quả cao. Đồng thời thông báo, phổ biến những nội dung, phương pháp làm việc tốt, những thiếu sót tồn tại trong việc nhận thức và áp dụng pháp luật để Viện kiểm sát cấp huyện nghiên cứu, rút kinh nghiệm.
Đối với công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự.
Nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc tiếp nhận giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố. Thực hiện tốt quan hệ phối hợp với các cơ quan tài chính, ngân hàng, thanh tra... và các cơ quan tiến hành tố tụng để kiểm sát tốt việc tiếp nhận, phân loại, xử lý tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố tội phạm trong lĩnh vực này. Thực hiện tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra phải chủ động đề ra yêu cầu điều tra và đặc biệt chú ý để kiểm sát chặt chẽ hoặc trực tiếp tiến hành một số hoạt động tố tụng như: hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác...để nâng cao chất lượng điều tra, truy tố và và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa; không để xảy ra tình trạng phải đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra đối với bị can do không phạm tội, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng hình sự hóa các quan hệ dân sự kinh tế hoặc vi phạm trong hoạt động tố tụng. Qua mỗi vụ án phải xem xét đánh giá nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh vi phạm và tội phạm và tiến hành tổng hợp chung để ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm, thực hiện kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước yêu cầu khắc phục nguyên nhân, điều kiện phát sinh vi phạm, tội phạm. Tổ chức tập huấn nghiệp vụ chuyên sâu đối với tội phạm liên quan đến tín dụng, ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết án cho cán bộ, Kiểm sát viên trong toàn ngành.
Ngoài ra, để công cuộc phòng chống các hoạt động liên quan đến tín dụng đen và tội phạm về tín dụng ngân hàng có hiệu quả,cần phải có những giải pháp chung như sau:
Nhà nước phải quản lý và kiểm soát chặt chẽ hoạt động tín dụng ở khu vực ngân hàng. Bản thân ngân hàng cũng phải kiểm soát chặt chẽ được nguồn vốn cho vay, từ việc thẩm định tài sản thế chấp vay vốn, mục đích vay, kiểm tra việc sử dụng vốn vay, đôn đốc thu hồi nợ. Mặt khác, ngân hàng phải có sự điều chỉnh thường xuyên và hợp lý về lãi suất nhằm thu hút nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu vay cho thị trường. Ngoài ra, cần phải nghiên cứu để có cơ chế về mặt hành chính, thủ tục, điều kiện thông thoáng hơn để mọi thành phần kinh tế cũng như người dân có nhu cầu tín dụng đều có thể tiếp cận được với nguồn vốn vay của Ngân hàng. Nhà nước cần có kế hoạch phát triển mạnh mẽ và đa dạng hơn thị trường tài chính- tín dụng để đáp ứng với các nhu cầu tín dụng chính đáng của người dân và doanh nghiệp, để hạn chế và ngăn chặn tình trạng tín dụng đen tồn tại và phát triển. Tăng cường các biện pháp hành chính trong việc quản lý cho vay lãi của cá nhân, đặc biệt là các dịch vụ cầm đồ.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật về tín dụng và ngân hàng để quản lý tốt các hoạt động vay và cho vay, kinh doanh cầm đồ...Tiếp tục sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và các nghị định có liên quan trong lĩnh vực tín dụng,ngân hàng để tạo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tín dụng, ngân hàng. Đặc biệt chú trọng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng. Bộ luật hình sự phải được hoàn thiện theo hướng quy định cụ thể và chặt chẽ về tội phạm liên quan đến hoạt động tín dụng đen, nhằm ngăn chặn nạn tín dụng đen cũng như hệ lụy của nó đối với đời sống của người dân nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Đồng thời cần bổ sung thêm một số điều luật xử lý các hành vi vi phạm khác trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng cho phù hợp với tình hình mới. Liên ngành tư pháp Trung ương cần có văn bản hướng dẫn quy định tại Điều 163 Bộ luật hình sự (Tội cho vay lãi nặng), trong đó cần quy định cụ thể: Thế nào là hành vi cho vay có tính chất “chuyên bóc lột”; số lượng tiền thu lợi bao nhiêu thì được coi là “thu lợi bất chính lớn”; mức lãi suất cao hơn so với quy định của pháp luật từ 10 lần trở lên là mức lãi suất nào của Ngân hàng (lãi suất cơ bản, lãi suất huy động hay lãi suất cho vay). Đối với Điều 179 Bộ luật hình sự (Tội vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng) cần quy định thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Hướng dẫn cụ thể, rõ ràng hơn về đường lối xử lý, các dấu hiệu của các tội danh liên quan đến tín dụng đen, đặc biệt là các tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ngoài ra, cần sửa đổi Bộ luật dân sự phần quy định về hợp đồng vay tài sản, trong đó quy định chi tiết hơn về hình thức hợp đồng; sửa đổi khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự vì nếu thực hiện theo khoản 2 Điều 305 Bộ luật dân sự thì người có nghĩa vụ chậm trả tiền chỉ phải trả lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định, vô hình chung khuyến khích các đương sự chiếm dụng vốn vì chỉ phải trả lãi với mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất vay ban đầu.
Về công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mọi công dân trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về tín dụng và ngân hàng. Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, chủ trương, pháp luật; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng các thủ đoạn tham ô, lừa đảo chiếm đoạt tiền trên thị trường tín dụng nhất là tín dụng đen để cán bộ, người dân cảnh giác không vì hám lợi nhất thời, ham lãi suất cao mà mắc lừa kẻ phạm tội. Ngoài ra, tuyên truyền, phổ biến chính sách, chủ trương, pháp luật, công khai các thông tin về ngân hàng,đi đôi với việc áp dụng các chế tài, xử phạt nghiêm khắc có tác dụng răn đe, ngăn ngừa vi phạm, đảm bảo hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội và phát triển bền vững.
Đối với cơ quan ngân hàng: Để cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng đạt hiệu quả thì vấn đề đặt ra là phải kiện toàn và tăng cường năng lực các ngân hàng, phải có những động thái rà soát và chấn chỉnh lại quy trình công tác, bịt kín những sơ hở thiếu sót trong hoạt động nghiệp vụ, tăng cường kiểm tra giám sát hơn nữa trong ngân hàng của mình. Bên cạnh đó các Ngân hàng cũng cần thực hiện những biện pháp giáo dục tư tưởng, tác phong làm việc cho nhân viên các cấp, tăng cường sự giám sát và đề cao trách nhiệm cá nhân trong việc thực hiện hoạt động nghiệp vụ. Còn đối với các nhân viên có biểu hiện vi phạm thì cần kiên quyết xử lý. Tăng cường công tác phối hợp thanh tra, kiểm tra công khai, kết hợp với điều tra xử lý bằng các biện pháp nghiệp vụ đối với các tội phạm và vi phạm pháp luật về ngân hàng. Quan tâm chỉ đạo các ngân hàng thương mại nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế chủ đạo thực hiện tốt các chính sách, pháp luật về Ngân hàng. Các Ngân hàng phải hợp tác chặt chẽ với các cơ quan chức năng như Viện kiểm sát, Công an để có các biện pháp chủ động phòng chống tội phạm trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng, nhằm đảm bảo sự trong sạch và uy tín trong hoạt động ngân hàng, phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thúc đẩy hơn nữa các hoạt động hợp tác với các tổ chức quốc tế nhằm nghiên cứu, trao đổi, ứng dụng khoa học - công nghệ về ngân hàng để hạn chế thấp nhất các kẽ hở tạo điều kiện cho vi phạm pháp luật và tội phạm về ngân hàng. Học tập kinh nghiệm của các nước có kinh nghiệm để tổ chức phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm ngân hàng.
Tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, bổ sung ngân sách để đảm bảo cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị chuyên dùng và biên chế cho các cơ quan bảo vệ pháp luật để tăng cường năng lực phòng chống tội phạm về tín dụng và ngân hàng, đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Ngành Kiểm sát nói riêng và các cơ quan tư pháp nói chung cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng cán bộ có trình độ chuyên môn nhất là về nghiệp vụ tài chính kế toán để phát hiện, xử lý tội phạm liên quan đến hoạt động tín dụng đen, góp phần bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án này nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật.
Tóm lại: Đấu tranh phòng, chống các hoạt động liên quan đến tín dụng đen nói chung và tội phạm về tín dụng ngân hàng nói riêng trong tình hình hiện nay là cuộc đấu tranh lâu dài, quyết liệt và là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Sự thành công trong cuộc đấu tranh này góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trước hết, Đảng và Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp luật đảm bảo quản lý đầy đủ hiệu quả hoạt động tài chính tiền tệ, tín dụng, ngân hàng ... và thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển lành mạnh. Các cơ quan chuyên trách đấu tranh phòng, chống vi phạm, tội phạm có liên quan đến tín dụng, ngân hàng phải thực hiện tốt các biện pháp nâng cao chất lượng công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đối với Viện kiểm sát nhân dân cần quan tâm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, trong đó cần thực hiện tốt công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản, tranh chấp hợp đồng tín dụng và công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự liên quan đến hoạt động tín dụng, ngân hàng để góp phần thiết thực vào việc bảo vệ trật tự kinh tế, tạo môi trường lành mạnh cho phát triển kinh tế xã hội tại địa phương./.
Nguyễn Đức Sơn