Tóm tắt diễn biến vụ việc như sau: Ngày 01/4/2024, UBND xã T, huyện L có biên bản xác minh về việc ông Nguyễn Văn A ở cùng xã đã có hành vi dựng lều tôn sắt (kích thước 5m2) và trồng 30 cây chuối trên phần đất (5 lô) thuộc dự án khu dân cư mới xã T huyện L, diện tích vi phạm là 450m2, các lô đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cá nhân khác nhưng họ chưa sử dụng.
Về nguồn gốc thửa đất: ông Nguyễn Văn A cho rằng ông là người có thửa đất nông nghiệp thuộc vị trí ông dựng lều tôn sắt bị nhà nước thu hồi từ năm 2020 để làm dự án khu dân cư. Ông không nhất trí với phương án bồi thường, không nhận tiền bồi thường và còn khiếu kiện lên trung ương để xem xét lại. Ông cho cẩu lều tôn sắt ở nơi khác đến và trồng chuối trên thửa đất nêu trên là nhằm mục đích giữ đất không cho ai sử dụng. Quá trình giải quyết, các hộ dân có đất đề nghị chính quyền xem xét, dỡ bỏ.
Ngày 15/4/2024, UBND xã T đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với ông Nguyễn Văn A về hành vi chiếm đất theo quy định tại khoản 4,5 Điều 14 nghị Định 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai (mức xử phạt từ 10.000.000đ đến 20.000.000đ). Sau đó, chuyển hồ sơ lên Chủ tịch UBND huyện L để xử phạt theo thẩm quyền.
Xét thấy hành vi của ông Nguyễn Văn A thuộc trường hợp gây cản trở sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều 16, Định 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ ( mức phạt từ 1.000.000đ đến 3.000.000đ ) nên Chủ tịch UBND huyện L chuyển hồ sơ lại cho Chủ tịch UBND xã T giải quyết theo thẩm quyền.
Ngày20/7/2024, sau khi xác minh Chủ tịch UBND xã T đã ra quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất với lý do hết thời hạn xử phạt hành chính. Không nhất trí ông Nguyễn Văn A khởi kiện quyết định hành chính nêu trên ra tòa.
Hình ảnh minh họa
Quá trình giải quyết vụ án, có nhiều quan điểm khác nhau về xác định quan hệ pháp luật và hành vi vi phạm của ông Nguyễn Văn A, cụ thể:
Quan điểm thứ nhất: cho rằng hành vi của ông A là hành vi “chiếm đất” thể hiện ở việc dựng lều tôn và trồng một số cây chuối lên đất của người khác mà không được sự đồng ý của người đó. Với mức phạt từ 10.000.000đ đến 20.000.000đ thì vụ việc thuộc thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch UBND huyện L, việc Chủ tịch UBND xã T ra quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là không đúng thẩm quyền.
Quan điểm thứ hai: cho rằng hành vi của ông A không phải hành vi “chiếm đất” mà là hành vi “cản trở” sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều 16, Định 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ (nay là Điều 15 Nghị định 123/2024) nên việc Chủ tịch UBND xã T ban hành quyết định hành chính là đúng thẩm quyền.
Quan điểm thứ ba: cho rằng hành vi của ông A thuộc quan hệ pháp luật dân sự tranh chấp đất đai vì diện tích đất ông A dựng lều và trồng chuối thuộc diện tích đất đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình cá nhân khác. Đây là quyền dân sự được công nhận nên việc Chủ tịch UBND xã L xử lý về quan hệ pháp luật hành chính là không đúng, cần xem xét hủy quyết định hành chính để hướng dẫn công dân khởi kiện vụ án dân sự tranh chấp đất đai.
Cá nhân tôi đồng tình với quan điểm thứ hai vì thấy rằng ông A là người biết rõ thửa đất đã bị Nhà nước thu hồi, dự án đã san lấp xây dựng xong cơ sở hạ tầng và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người khác không còn ranh giới thửa đất nông nghiệp cũ của ông A. Hành vi của ông A đơn thuần chỉ là đưa các vật dụng đến (lều tôn sắt) và trồng một số cây chuối trên thửa đất sau đó thì bỏ hoang, bỏ mặc không sử dụng. Hành vi mang tính cản trở không cho người khác sử dụng đất hơn là việc chiếm đoạt quyền sử dụng đất. Hành vi đó là vi phạm pháp luật về đất đai nên việc Chủ tịch UBND xã T ban hành quyết định hành chính là đúng thẩm quyền và đúng quan hệ pháp luật./.
Nhữ Đức Dũng- Phòng 10, VKSND tỉnh Bắc Giang