Trong thời kỳ xã hội phát triển, hội nhập quốc tế ngày nay ở nước ta, phương tiện tham gia giao thông khá đa dạng như: xe máy, ô tô, tàu điện...nhưng phương tiện phổ biến nhất trong những năm gần đây đó là xe đạp điện, xe máy điện. Đây là phương tiện có giá thành rẻ, phù hợp với nhiều lứa tuổi (nhiều nhất ở lứa tuổi học sinh) phổ biến ở các thành phố và phương tiện này cũng gây ra không ít những vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng. Tuy nhiên, để xử lý những trường hợp gây tai nạn giao thông lại gặp rất nhiều khó khăn. Vậy hiểu như thế nào là xe máy điện, phân biệt nó với xe đạp điện như thế nào; người điều khiển có bắt buộc phải có giấy phép lái xe hay không là một câu hỏi cần phân biệt và căn cứ xử lý về hình sự đối với người điều khiển phương tiện này khi gây tai nạn.
Theo quy định tại khoản 18 và 19 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008:
“18. Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự.
19. Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (sau đây gọi là xe thô sơ) gồm xe đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lô, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự”.
Như vậy, theo quy định trên xe máy điện và xe đạp điện là hai loại xe khác nhau. Trong đó, xe máy điện là một loại xe cơ giới còn xe đạp điện là phương tiện giao thông thô sơ. Ngoài ra, căn cứ điểm d, đ và e khoản 1 Điều 3 Nghị định 171/2013/NĐ-CP quy định:
“d) Xe máy điện là xe gắn máy được dẫn động bằng động cơ điện có công suất lớn nhất không lớn hơn 4 KW, có vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 50 km/h;
đ) Các loại xe tương tự xe gắn máy là phương tiện giao thông đường bộ chạy bằng động cơ, có hai bánh hoặc ba bánh và vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 50 km/h, trừ các xe quy định tại Điểm e khoản này;
e) Xe đạp máy là xe thô sơ hai bánh có lắp động cơ, vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 25 km/h và khi tắt máy thì đạp xe đi được (kể cả xe đạp điện)”.
Theo đó, xe đạp điện và xe máy điện được hiểu như sau:
Xe máy điện là xe gắn máy được dẫn động bằng động cơ điện có công suất lớn nhất không lớn hơn 4 KW, có vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 50 km/h. Xe máy điện là phương tiện cơ giới, khi hết điện, không thể đạp pê-đan cho nó chạy được như xe đạp điện.
Xe đạp máy là xe thô sơ hai bánh có lắp động cơ, vận tốc thiết kế lớn nhất không lớn hơn 25 km/h và khi tắt máy thì đạp xe đi được (kể cả xe đạp điện)”. Xe đạp điện có cơ cấu trợ lực bằng bàn đạp chân khi hết điện.
Ngày 22/10/2015, Bộ Công an ban hành Thông tư số 54/2015/TT-BCA quy định xe máy điện sẽ phải đăng ký như một chiếc xe máy bình thường, trong khi xe đạp điện thì chưa cần đăng ký sở hữu. Như vậy hệ thống văn bản pháp luật quy định loại phương tiện xe hai bánh chạy bằng điện hiện nay đã tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, một trong số những quy định này đang bị bỏ ngỏnhư việc đăng ký, cấp giấy phép lái xe…, khiến tình trạng xe máy điện, xe đạp điện lưu thông vi phạm tràn lan trên đường và khó kiểm soát, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây tai nạn giao thông, chưa kể việc xử lý về hình sự đối với người điều khiển phương tiện này chủ yếu là ở lứa tuổi học sinh (dưới 16 tuổi - chưa đủ tuổi chịu TNHS về hành vi này), gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng./.
Phạm Hữu Cường- Phòng 3, VKSND tỉnh Bắc Giang