Theo Quyết định thi hành theo đơn yêu cầu số 287/QĐ-CCTHADS ngày 13/8/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện V, giữa: Người được thi hành án là bà Hoàng Thị H và Người phải thi hành án là ông Thân Văn C đều ở thôn P, xã T, huyện V, tỉnh B. Ông Thân Văn C phải thi hành Bản án dân sự phúc thẩm số 22/2019/HNGĐ-PT ngày 11/7/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh B và theo đơn yêu cầu của người được thi hành án bà Hoàng Thị H. Khoản phải thi hành: Giao cho chị Hoàng Thị H được sử dụng 100,2 m2 đất trị giá 30.060.000đ.
Trong quá trình thi hành án, ông Thân Văn Cđã cung cấp cho Chi cục Thi hành án dân sự các tài liệu gồm: “Văn bản thỏa thuận” ngày 05/9/2019 giữa ông Thân Văn C và bà Hoàng Thị H, được Ông Thân Văn Q (Chủ tịch UBND xã T) ký xác nhận chữ ký ngày 05/9/2019; 01 giấy nhận tiền ngày 16/9/2019 giữa ông Thân Văn C và bà Hoàng Thị H, được Ông Thân Văn Q ký xác nhận chữ ký ngày 17/9/2019 (bản phô tô) thể hiện bà Hoàng Thị H đã nhận đủ số tiền 407.397.500 đồng, bà H có nghĩa vụ giao lại phần tài sản được giao theo Bản án dân sự phúc thẩm số 22/2019/HNGĐ-PT ngày 11/7/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh B, giao lại cho ông C quản lý, sử dụng. Ông C đề nghị Chi cục Thi hành án dân sự huyện V đình chỉ thi hành án đối với vụ việc nêu trên theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự.
Người được thi hành án bà H và ông Thân Văn Q đều xác định ngày 16/9/2019, bà Hường chỉ nhận được số tiền 7.397.500 đồng của ông C; không phải số tiền 407.397.500 đồng. Bà H không chấp nhận nội dung “Văn bản thỏa thuận” và “Giấy nhận tiền” mà ông C đã cung cấp. Bà H không đề nghị đình chỉ thi hành án và yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự huyện V cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất và tài sản đất. Ngoài ra, ông Thân Văn Q xác định: khi ông Thân Văn C đến chứng thực chữ ký vào “Văn bản thỏa thuận” và “Giấy nhận tiền” chỉ có mặt ông Thân Văn C, không có mặt bà Hoàng Thị H.
Hiện nay có hai quan điểm giải quyết vụ việc như sau:
Quan điểm thứ nhất: “Văn bản thỏa thuận” và “Giấy nhận tiền” mà ông C đã cung cấp không được Chấp hành viên ký xác nhận theo quy định khoản 1 Điều 6 Luật Thi hành án dân sự; việc chứng thực chữ ký của ông Thân Văn Q không đúng thủ tục; người được thi hành án không có đề nghị đình chỉ thi hành án theo điểm c khoản 1 Điều 51 Luật Thi hành án dân sự. Do đó, Chi cục Thi hành án dân sự huyện V không công nhận nội dung thỏa thuận trong “Văn bản thỏa thuận” và “Giấy nhận tiền”; không ra quyết định đình chỉ thi hành án theo yêu cầu của ông C.
Quan điểm thứ hai: “Văn bản thỏa thuận” và “Giấy nhận tiền” đều có nội dung thỏa thuận bà Hoàng Thị H đã nhận đủ số tiền 407.397.500 đồng, bà H có nghĩa vụ giao lại phần tài sản được giao theo bản án, giao lại cho ông C quản lý, sử dụng. Văn bản thỏa thuận của các đương sự không bắt buộc phải có sự chứng kiến của Chấp hành viên. Vì theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Thi hành án dân sự thì Chấp hành viên chỉ có trách nhiệm chứng kiến việc thỏa thuận thi hành án khi có yêu cầu; Chấp hành viên không có nghĩa vụ lập biên bản thỏa thuận thi hành án. Mặt khác, các đương sự có quyền thỏa thuận thi hành án tại bất kỳ thời điểm nào, tại bất kỳ cơ quan, tổ chức nào. Do đó, khi đương sự cung cấp “Văn bản thỏa thuận thi hành án” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự thì Chi cục thi hành án dân sự huyện V ra quyết định đình chỉ thi hành án theo yêu cầu của ông C.
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai. Mong nhận được sự tham gia góp ý trao đổi của đồng nghiệp và độc giả./.
Ong Văn Chúc- Viện KSND huyện Việt Yên