ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Thứ hai, 23/12/2024 -14:55 PM

Vướng mắc khi áp dụng tình tiết “có dấu hiệu bỏ trốn”, “có dấu hiệu tiếp tục phạm tội” quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để áp dụng biện pháp tạm giam với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng

 | 

Vướng mắc khi áp dụng tình tiết “có dấu hiệu bỏ trốn”, “có dấu hiệu tiếp tục phạm tội” quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để áp dụng biện pháp tạm giam với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng.

Tạm giam là một trong các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra,Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự, hạn chế quyền tự do thân thể của công dân.

Trong một số trường hợp, việc áp dụng biện pháp tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội, ngoài ra biện pháp ngăn chặn này còn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án trong mỗi giai đoạn tố tụng.

Quy định về căn cứ tạm giam theo Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015  có  nhiều điểm mới và quy định chặt chẽ hơn về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam so với Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên, trên thực tế vừa qua thấy việc xác định  căn cứ  “có dấu hiệu bỏ trốn”, “có dấu hiệu tiếp tục phạm tội” quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để áp dụng biện pháp tạm giam với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng còn có vướng mắc cần được tháo gỡ.

Tại điểm c, d khoản 2 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:

 “ 2. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:

c)...có dấu hiệu bỏ trốn.

d)....có dấu hiệu tiếp tục phạm tội.”

Từ những quy định nêu trên đã có ý kiến khác nhau giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định các căn cứ này để  áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng như:

Có quan điểm khi cần áp dụng biện pháp tạm giam, chỉ cần xác minh tại Công an cấp xã nơi bị can cư trú trước khi phạm tội, xác định bị can thường xuyên vắng mặt khỏi địa phương, đi đâu làm gì địa phương không nắm được (là có dấu hiệu bỏ trốn); bị can thường giao du với các đối tượng xấu, không có nghề nghiệp ổn định, đã từng bị xét xử về hình sự (tức người không có nhân thân tốt là có dấu hiệu tiếp tục phạm tội) từ đó áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can. Trong khi đó:

 Điều 32 Luật cư trú chỉ quy định các trường hợp khải khai báo tạm vắng khi đi khỏi địa phương: Bị can, bị cáo đang tại ngoại; người bị kết án phạt tù nhưng chưa có quyết định thi hành án hoặc được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; người bị kết án phạt tù được hưởng án treo; người bị phạt cải tạo không giam giữ; người đang bị quản chế; người đang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, trường giáo dưỡng nhưng đang được hoãn chấp hành hoặc tạm đình chỉ thi hành khi đi khỏi nơi cư trú từ một ngày trở lên có trách nhiệm khai báo tạm vắng.  Người trong độ tuổi làm nghĩa vụ quân sự, dự bị động viên đi khỏi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi mình cư trú từ ba tháng trở lên có trách nhiệm khai báo tạm vắng.

Tại Điều 2. Nghị quyết số 02 năm 2018 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cáo, hướng dẫn các trường hợp khi phạt tù đực hưởng án treo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự, xác định: “Điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo là có nhân thân tốt. Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc. Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng …thì cũng có thể cho hưởng án treo”.

Trên thực tế có nhiều bị can trước khi phạm tội do rất nhiều lý do khác nhau nên làm nghề tự do để kiếm thu nhập phục vụ cuộc sống, họ phải đi nhiều nơi khác nhau để làm việc, công việc cũng chỉ mang tích chất cơ động, không ở cố định lâu dài tại một địa điểm nào khi đến làm việc do đó họ không phải khai báo tạm vắng và cũng không phải đăng ký tạm trú nên có trường hợp địa phương và gia đình không biết biết được họ đi những đâu và khi nào về. Ví dụ nghề bán chim cảnh dạo, bán vôi rong.... Có trường hợp bị can trước khi phạm tội mặc dù có tiền án, tiền sự nhưng sau khi chấp hành án tốt tính đến ngày phạm tội sau này họ luôn chấp hành tốt các quy định của pháp luật. Đối với lần phạm tội lần này khi xét xử họ có thể được hưởng án treo nhưng vẫn bị coi là có nhân thân xấu, có dấu hiệu bỏ trốn, tiếp tục phạm tội từ đó bị áp dụng biện pháp tạm giam.

Trong khi đó biên bản xác minh của cơ quan điều tra đối với các trường hợp trên cơ bản cũng chỉ thông qua Công an cấp xã, đã số không có sự tham gia của chính quyền địa phương, gia đình bị can. Nhiều biên bản xác minh của cơ quan điều tra, Công an cấp xã xác định bị can thường xuyên tiếp xúc với các đối tượng tệ ạn xã hội nhưng lại không cung cấp được hồ sơ, tài liệu thể hiện họ tiếp xúc vì mục đích gì. Trong khi đó Công an cấp xã là Công an chính quy, thẩm quyền, trình tự cung cấp các nội dung trên trong biên bản xác minh của cơ quan điều tra cũng không được làm rõ và thống nhất.

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để xác định được bị can, bị cáo có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội thì các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải dựa vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xem xét đánh giá. Nhưng thực tế việc xem xét, đánh giá lại gặp nhiều vướng mắc, vì: muốn xem xét các dấu hiệu trên phải dựa vào yếu tố thời gian, ý thức chủ quan, diễn biến hành vi của bị can, bị cáo… để xác định. Trên thực tế rất ít bị can thừa nhận hoặc khai nhận là mình sẽ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn, từ đó việc áp dụng biện pháp tạm giam dựa trên các dấu hiệu này sẽ rất khó áp dụng.

Quy định về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam này vừa thể hiện chính sách nhân đạo, vừa thể hiện tính chất phân hóa hợp lý các đối tượng trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, phục vụ yêu cầu đấu tranh tội phạm trong tình hình hiện nay. Để việc áp dụng pháp luật được chính xác và thống nhất, không để xảy ra việc lạm dụng pháp luật khi áp dụng biện pháp tạm giam đề nghị liên ngành trung ương xem xét, sớm ban hành văn bản hướng dẫn việc áp dụng tình tiết “có dấu hiệu bỏ trốn”, “có dấu hiệu tiếp tục phạm tội” quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 119 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để áp dụng biện pháp tạm giam với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng./.

Phạm Văn Công- VKSND huyện Việt Yên

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:31,814,777
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.144.252.243

    Thư viện ảnh