Theo quy định tại khoản 2 điều 195 Bộ luật tố tụng dân sự và điều 124 Luật tố tụng hành chính, Tòa án gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử kèm theo hồ sơ vụ án dân sự, hành chính cho Viện kiểm sát nghiên cứu trong thời gian tối đa 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Tòa án để Tòa án tiến hành xét xử vụ án (trong trường hợp VKS tham gia phiên tòa).
Trong khi nghiên cứu một hồ sơ vụ án dân sự, hành chính cụ thể do Tòa án chuyển đến, Viện kiểm sát
Trong những năm qua, công tác kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định dân sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang đã có những hiệu quả nhất định. Viện kiểm sát các cấp đã chú trọng nghiên cứu, kiểm sát các bản án, quyết định sơ thẩm và đã kịp thời phát hiện vi phạm để kháng nghị phúc thẩm. Chất lượng kháng nghị đã từng bước được nâng lên, số lượng kháng nghị cũng tăng một cách đáng kể, nhiều kháng nghị phúc thẩm được Viện kiểm sát cấp phúc thẩm bảo vệ, tỷ lệ kháng nghị được Toà
Thông qua thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, chúng tôi thấy trong việc giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình nổi lên tình trạng hầu hết các vụ Tòa án công nhận thuận tình ly hôn đều chưa đảm bảo đầy đủ chứng cứ chứng minh căn cứ cho ly hôn, cụ thể như sau:
Có rất nhiều vụ án hôn nhân gia đình, trong quá trình giải quyết, Tòa án yêu cầu người chồng và người vợ viết bản tự khai về vấn đề ly hôn của họ, sau đó Tòa tiến hành hòa giải, tại buổi hòa giải,
Ngày 22/10/2012 vợ chồng chị Chiến, anh Chung cho vợ chồng anh Chuyên, chị Yến vay 1.350.000.000 đồng. Việc vay nợ có giấy vay nợ, trong đó các bên không thỏa thuận lãi suất và thời hạn trả nợ. Theo chị Chiến khai, các bên có thỏa thuận miệng với nhau về lãi suất là 1000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày. Do đòi tiền nhiều lần không được nên ngày 10/5/2013 vợ chồng chị Chiến, anh Chung đã khởi kiện yêu cầu vợ chồng chị Yến, anh Chuyên trả số tiền nợ gốc nêu trên và lãi suất theo quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án, ngày 04/6/
Ngày 02/10/2011 anh Đọc cho vợ chồng ông Thư, bà Tới vay 4.500 Đô la Mỹ (USD), có lập giấy vay nợ. Theo giấy vay nợ thì các bên thỏa thuận về lãi suất là 1.800.000 đồng/01 tháng/4.500 USD, khi nào anh Đọc cần tiền thì ông Thư, bà Tới phải có trách nhiệm thanh toán trả toàn bộ số tiền gốc và lãi. Quá trình vay nợ ông Thư, bà Tới đã thanh toán trả được cho anh Đọc 5.400.000 đồng tiền lãi vào các tháng 10,11, 12 năm 2011. Sau đó anh Đọc đòi tiếp số nợ còn lại thì ông Thư, bà Tới không trả
Tại Điều 232- Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định một số tình tiết để định khung hình phạt là vật phạm pháp có số lượng “lớn”, “rất lớn”, “đặc biệt lớn”; gây hậu quả “nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng”, “đặc biệt nghiêm trọng”. Tuy nhiên, trong quá trình áp hành pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về việc xác định thế nào là vật phạm pháp có số lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn; gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghi
Vấn đề xác định thế nào là “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm” đã được quy định tại Điều 49 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và các văn bản hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao như: Nghị Quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000, Nghị quyết số 01/2006/NQ- HĐTP ngày 12/5/2006. Tuy nhiên, qua thực tế giải quyết các vụ án hình sự của VKSND thành phố Bắc Giang trong thời gian vừa qua, chúng tôi thấy rằng, vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, từ đ
Thông qua công tác kiểm sát trực tiếp tại Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn trong việc giám sát, giáo dục người bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo chúng tôi thấy nổi lên một vấn đề tưởng như hết sức đơn giản về mặt lý luận nhưng lại rất bất cập về mặt thực tiễn. Cụ thể như sau:
Về mặt lý luận: Theo quy định tại điều 60 Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn về cách tính thời gian thử thách của án treo như Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02 tháng 10 năm 2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì hiện nay
Ngày 15/3/2011, chị Yến có cho vợ chồng anh Lê, chị Nga vay 300.000.000đ; có viết giấy vay tiền; hẹn thời hạn trả là ngày 25/3/2011; trong giấy vay tiền không ghi lãi suất nhưng hai bên có thỏa thuận lãi suất là 2%/tháng. Khi vay tiền anh Lê, chị Nga có thế chấp cho chị 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U 947588 ngày 19/6/2002 do UBND huyện H cấp cho hộ gia đình anh Lê. Đến hạn trả, anh Lê và chị Nga không trả tiền nên ngày 14/6/2011 anh Lê và chị Nga đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 623m2 đất thổ cư và đất vườn đã thế chấp cho chị