.

Thứ hai, 06/05/2024 -06:58 AM

Vướng mắc trong việc xác định thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền ra quyết định hành chính

 | 

Luật Tố tụng Hành chính được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2010, có hiệu lực từ ngày 01/7/2011, trong đó xác định Viện Kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật. Tuy nhiên trong quá trình kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, do chưa có nhiều kinh nghiệm nên ở VKS cấp huyện gặp phải những khó khăn, vướng mắc nhất định. Sau đây xin nêu một ví dụ để trao đổi cùng đồng nghiệp.

Tóm tắt nội dung vụ việc và quá trình thụ lý giải quyết:

Năm 1987, ông Nguyễn Đức S có mua của ông Đinh Văn Đ một mảnh đất đồi tại xã Đ, huyện Y, tỉnh B sau đó trồng cây bạch đàn. Khi đó, bà Trần Thị M cũng sử dụng mảnh đất cạnh khu đất của ông S để trồng cây lâm nghiệp từ năm 1990. Hai hộ vẫn sử dụng liên tục khu đất này. Ngày 10/11/2011, ông S có đơn đề nghị UBND xã Đ làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) và được UBND xã trả lời tại công văn số 38 ngày 27/11/2011: Khu đất này đã được UBND tỉnh B giao cấp đất cho nhân dân theo Quyết định số 1059/QĐ-CT ngày 18/11/1997. UBND xã đã làm thủ tục trình UBND huyện Y xin chuyển mục đích sử dụng đất sang đất kinh doanh xăng dầu, chất đốt và giao một phần khu đất này cho ông Liểu Quốc H nên việc ông S xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không có căn cứ.

 Ông S và bà M có đơn khiếu nại đến UBND huyện Y, UBND huyện đã thành lập tổ công tác, tiến hành xác minh đã thể hiện:

* Hồ sơ đền bù giải phóng mặt bằng theo QĐ số 1059/QĐ-CT ngày 18/11/1997 của UBND tỉnh B về việc cấp đất ở cho nhân dân khu Đồi Cao  thôn Cổng Châu, không có hồ sơ và chưa thực hiện đền bù giải phóng mặt bằng.

- Ngày 28/12/2009, UBND xã Đ có tờ trình số 34 về việc điều chỉnh chuyển đổi mục đích đất ở sang đất lâm nghiệp trình HĐND xã, cùng ngày Chủ tịch HĐND xã trích nghị quyết với nội dung: Thu hồi 2.500m2 đất ở nông thôn do UBND xã Đ quản lý chuyển sang đất kinh doanh 2000 m2, đất giao thông 500 m2.

- Ngày 14/4/2010, UBND huyện Y có quyết định số 195/QĐ-UBND về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, tổng diện tích được bổ sung là 2.500m2 loại đất lâm nghiệp vào mục đích sử dụng kinh doanh xăng dầu, chất đốt 2000m2, đất hành lang giao thông 500 m2.

- Ngày 29/8/2011, UBND huyện Y có Quyết định số 837/QĐ-UBND về việc thu hồi, chuyển mục đích cho thuê đất xây dựng Cây xăng dầu của ông Liểu Quốc H tại xã Đ.

* Hồ sơ thuê đất của ông Liểu Quốc H:

- Ngày 15/9/2011, ông H làm hợp đồng thuê đất số 16/HĐ-TĐ với UBND huyện Y (do ông Đỗ Ngọc T- Trưởng phòng tài nguyên môi trường đại diện theo ủy quyền) nội dung: Thuê 1600 m2 đất xây dựng cây xăng kinh doanh xăng dầu, không tính hành lang, đường đi, mương nước 400 m2, thời hạn thuê đất là 29 năm.

- Ngày 21/12/2011, ông H được UBND huyện Y cấp Giấy chứng nhận QSD đất số BG246985.

- Sau khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên, ông H đã tiến hành cho san ủi mặt bằng khu đất này.

Do có đơn khiếu nại của ông S, bà M nên việc xây dựng cây xăng của ông H bị dừng lại.

Ngày 07/6/2012, Chủ tịch UBND huyện Y ra Quyết định giải quyết đơn số 1269/QĐ-UB về việc giải quyết đơn của ông S và bà M.

Tại Quyết định giải quyết đơn số 1269/QĐ-UB đã quyết định:

1. Thu hồi Quyết định số 837/QĐ-UBND ngày 29/8/2011 của UBND huyện Y về việc thu hồi, chuyển mục đích cho thuê đất xây dựng Cây xăng dầu của ông Liểu Quốc H tại xã Đ.

2. Thu hồi giấy CNQSD đất số BG246985 ngày 21/12/2011 do UBND huyện Y cấp cho ông Liểu Quốc H; Giao cho phòng Tài nguyên- Môi trường thu hồi giấy CNQSD đất nộp về UBND huyện.

3. Hủy bỏ hợp đồng thuê đất số 16/HĐ-TĐ giữa UBND huyện Y (do ông Đỗ Ngọc T- Trưởng phòng tài nguyên môi trường đại diện theo ủy quyền) với ông Liểu Quốc H.

- Ngày 17/7/2012, ông H nhận được Quyết định giải quyết đơn số 1269/QĐ-UB.

Ngày 17/5/2013, ông Liểu Quốc H có đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện Y, yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 1269/QĐ-UBND ngày 07/6/2012 của Chủ tịch UBND huyện Y. Ngày 23/7/2013, Tòa án huyện Y trả lại đơn khởi kiện cho ông H, căn cứ điểm g khoản 1 Điều 109 Luật tố tụng hành chính, lý do: Tại thời điểm này, ông H đang khiếu nại Quyết định 1269 đến UBND tỉnh B và đang được UBND tỉnh B giao cho Sở Tài nguyên và môi trường thụ lý giải quyết. Ngày 12/8/2013, ông H có đơn xin rút đơn khiếu nại gửi UBND tỉnh. Ngày 16/8/2013, UBND tỉnh có Thông báo về việc đình chỉ giải quyết khiếu nại của ông H. Ngày 15/8/2013, ông H tiếp tục có đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện Y lần 2 vẫn nội dung yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 1269/QĐ-UBND ngày 07/6/2012 của Chủ tịch UBND huyện Y và cam đoan không đồng thời khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Ngày 10/10/2013, Tòa án thụ lý vụ án số 01.

Quá trình giải quyết vụ án hành chính nêu trên, hiện nay đang có hai quan điểm khác nhau, cụ thể là:

1. Về thời hiệu khởi kiện của ông Liểu Quốc H.

Quan điểm thứ nhất: Ngày 17/5/2013, ông H nộp đơn đến Tòa án huyện Y (lần 1). Đến 23/7/2013 thì Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện cho ông H. Ngày 15/8/2013, ông H tiếp tục có đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện Y lần 2 vẫn cùng nội dung yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 1269/QĐ-UBND ngày 07/6/2012 của UBND huyện Y nên thời hiệu khởi kiện của ông H được tính từ ngày 17/5/2013, đảm bảo thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 104 Luật tố tụng hành chính. Ngày 10/10/2013, Tòa án thụ lý vụ án là đúng.

Quan điểm thứ hai: Ngày 17/5/2013, ông H nộp đơn đến Tòa án huyện Y (lần 1) nhưng đã được Tòa án huyện Y trả lại. Ngày 15/8/2013, ông H nộp đơn khởi kiện lần 2 đến Tòa án huyện Y là hết thời hiệu. Bởi lẽ: Quyết định số 1269/QĐ-UBND ban hành ngày 07/6/2012; Ngày 17/7/2012, ông H nhận được Quyết định giải quyết đơn số 1269/QĐ-UB. Do vậy, tính đến ngày 15/8/2013 là ngày ông H nộp đơn khởi kiện lần 2 thì đã quá thời hạn 01 năm, hết thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 104 Luật tố tụng hành chính nên Tòa án cần trả lại đơn khởi kiện của ông H theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 109 Luật tố tụng hành chính.

2. Về thẩm quyền ra Quyết định 1269/QĐ-UB.

Quan điểm thứ nhất: Quyết định 1269/QĐ-UB do Chủ tịch UBND huyện Y ký không đúng thẩm quyền, bởi lẽ: Theo quy định tại Điều 44 Luật đất đai năm 2003 thì thẩm quyền thu hồi đất là của UBND huyện. Trong khi Quyết định 1269/QĐ-UB do Chủ tịch UBND huyện ký mà không thay mặt UBND huyện là không đúng thẩm quyền. Hơn nữa, việc Chủ tịch UBND huyện quyết định thu hồi Giấy chứng nhận QSD đất của ông H mà chưa ra Quyết định thu hồi đất là không đúng. UBND huyện giải quyết đơn khiếu nại của ông S, bà M yêu cầu đòi quyền sử dụng đất là không đúng thẩm quyền, vi phạm Điều 136 Luật đất đai năm 2003 quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai vì: Diện tích đất này đã được cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho ông H nên thẩm quyền giải quyết là của Tòa án nhân dân huyện Y.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Quyết định 1269/QĐ-UB do Chủ tịch UBND huyện Y ký là đúng thẩm quyền, bởi lẽ: Quyết định 1269/QĐ-UB là quyết định giải quyết đơn của ông S và bà M, trong đó chứa đựng nội dung quyết định hành chính về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H. Do vậy, quyết định giải quyết đơn khiếu nại của ông S, bà M do Chủ tịch UBND huyện ký là đúng thẩm quyền và ông H có quyền khởi kiện Chủ tịch UBND huyện Y.

Do có quan điểm, nhận thức khác nhau về thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền ra quyết định hành chính như trên, rất mong có sự trao đổi kinh nghiệm trong việc giải quyết các vụ án hành chính của các đồng nghiệp.

Trần Lệ Toàn

 

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:27,841,508
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.135.219.166

    Thư viện ảnh