BLTTHS 2015 có nhiều điểm mới về hỏi cung bị can, lấy lời khai người tham gia tố tụng, đối chất, nhận dạng và nhận biết giọng nói.
1. Hỏi cung bị can.
- Về triệu tập bị can (Điều 182): BLTTHS 2015 có điểm mới đáng chú ý là: Giấy triệu tập bị can, ngoài việc phải ghi rõ họ tên, chỗ ở của bị can; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm có mặt thì phải ghi thời gian làm việc và trách nhiệm về việc vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; khi gửi giấy triệu tập, nếu bị can vắng mặt thì có thể giao giấy triệu tập cho người thân thích của bị can có đủ năng lực hành vi dân sự; quy định rõ trường hợp bị can vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Điều tra viên có thể ra quyết định áp giải (BLTTHS 2003 chỉ quy định vắng mặt không có lý do chính đáng thì áp giải).
- Về hỏi cung bị can (Điều 183): Điểm mới của BLTTHS 2015 là trước khi hỏi cung bị can Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào chữa cho bị can về thời gian, địa điểm hỏi cung. Khi xét thấy cần thiết Kiểm sát viên tham gia việc hỏi cung; quy định rõ hơn các trường hợp Kiểm sát viên hỏi cung bị can trong trường hợp bị can kêu oan, khiếu nại hoạt động điều tra hoặc có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp khác khi xét thấy cần thiết; việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Về biên bản hỏi cung bị can (Điều 184): Quy định rõ, trường hợp Kiểm sát viên hỏi cung bị can thì biên bản hỏi cung bị can được chuyển ngay cho Điều tra viên để đưa vào hồ sơ vụ án.
2.Lấy lời khai người tham gia tố tụng (từ Điều 185 đến Điều 188).
- Về triệu tập người tham gia tố tụng: Điểm mới đáng chú ý là, Giấy triệu tập phải ghi rõ mục đích và nội dung làm việc, thời gian làm việc; gặp ai và trách nhiệm việc vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; quy định rõ chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người tham gia tố tụng cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc, học tập có trách nhiệm tạo điều kiện cho người tham gia tố tụng thực hiện nghĩa vụ. Quy định rõ, trường hợp cần thiết Kiểm sát viên triệu tập người tham gia tố tụng để lấy lời khai.
- Về lấy lời khai người tham gia tố tụng: BLTTHS 2015 quy định trước khi lấy lời khai, Điều tra viên, cán bộ điều tra phải giải thích cho người làm chứng biết quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định Điều 66 của Bộ luật này, về quan hệ của họ với bị can, bị hại; bổ sung quy định “trường hợp xét thấy việc lấy lời khai của Điều tra viên không khách quan hoặc có vi phạm pháp luật hoặc xét cần làm rõ chứng cứ, tài liệu để quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra hoặc để quyết định việc truy tố thì Kiểm sát viên có thể lấy lời khai”.
3. Đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói.
- Về đối chất (Điều 189): Trong BLTTHS 2003 chưa có quy định cụ thể, ràng buộc về trách nhiệm của Kiểm sát viên phải trực tiếp kiểm sát hoạt động đối chất trong điều tra các vụ án hình sự. Nhưng đến BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể về hoạt động đối chất, trong đó có trách nhiệm của Kiểm sát viên.
+ Khoản 1 Điều 189 quy định căn cứ để đối chất và kiểm sát việc đối chất là, trong trường hợp có mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người “mà đã tiến hành các biện pháp điều tra khác nhưng chưa giải quyết được mâu thuẫn” thì Điều tra viên tiến hành đối chất; trước khi tiến hành đối chất, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc đối chất. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc đối chất. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản đối chất.
+ Khoản 2 Điều 189 bổ sung quy định: “Trước khi đối chất”, Điều tra viên phải giải thích cho người làm chứng hoặc bị hại tham gia để cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối.
+ Khoản 3 Điều 189 bổ sung quy định về nội dung, cách thức hỏi đối chất cụ thể, rõ ràng hơn, đó là “trong quá trình đối chất, Điều tra viên có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan”.
+ Khoản 4 về hình thức lập biên bản, đã bổ sung thêm nội dung “Việc đối chất có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh”.
- Về nhận dạng (Điều 190): Cũng như hoạt động đối chất, BLTTHS 2015 quy định “trước khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận dạng. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận dạng”; Khoản 2 Điều 190 quy định khi nhận dạng thì “người làm chứng, bị hại hoặc bị can, người chứng kiến” phải tham gia. Đây là quy định mới, bắt buộc mà Kiểm sát viên cần lưu ý khi tiến hành kiểm sát.
- Về nhận biết giọng nói (Điều 191): Đây là quy định mới của BLTTHS năm 2015, cụ thể:
+ Khoản 1 Điều 191 quy định, khi cần thiết, Điều tra viên có thể cho bị hại, người làm chứng hoặc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can nhận biết giọng nói. Số giọng nói được đưa ra để nhận biết ít nhất phải là ba và phải có âm sắc, âm lượng tương tự nhau.Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để cử Kiểm sát viên kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc nhận biết giọng nói. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản nhận biết giọng nói.
+ Khoản 2 Điều 191 quy định, khi nhận biết giọng nói, phải có sự tham gia của Giám định viên về âm thanh, người được yêu cầu nhận biết giọng nói, người được đưa ra để nhận biết giọng nói (trừ trường hợp việc nhận biết giọng nói được thực hiện qua phương tiện ghi âm) và người chứng kiến.
+ Khoản 3 Điều 191 quy định, nếu người làm chứng, bị hại được yêu cầu nhận biết giọng nói thì trước khi tiến hành, Điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Việc này phải ghi vào biên bản.
+ Khoản 4 Điều 191 quy định, Điều tra viên phải hỏi trước người được yêu cầu nhận biết giọng nói về những đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận biết được giọng nói.
Trong quá trình tiến hành nhận biết giọng nói, Điều tra viên không được đặt câu hỏi gợi ý. Sau khi người được yêu cầu nhận biết giọng nói đã xác nhận được tiếng nói trong số giọng nói được đưa ra thì Điều tra viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào đặc điểm gì mà xác nhận giọng nói đó.
+ Khoản 5 Điều 191, quy định, biên bản nhận biết giọng nói được lập theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật này. Biên bản ghi rõ nhân thân, tình trạng sức khỏe của người được yêu cầu nhận biết giọng nói và của những người được đưa ra để nhận biết giọng nói; đặc điểm của giọng nói được đưa ra để nhận biết, lời trình bày của người nhận biết giọng nói; điều kiện về không gian khi thực hiện nhận biết giọng nói.
Nhự vậy, những quy định về hỏi cung bị can, lấy lời khai người tham gia tố tụng, đối chất, nhận dạng và nhận biết giọng nói của BLTTHS 2015 so với BLTTHS 2003 được quy định theo hướng dẫn cụ thể hơn nhằm đạt tới kết quả điều tra khách quan, chính xác. Tuy nhiên, để thực hiện những quy định này cần có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về trình tự, thủ tục bảo quản, sử dụng, lưu trữ kết quả ghi âm, ghi hình đối với việc hỏi cung bị can, lấy lời khai người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử./.
Trần Văn Mạnh- VKSND huyện Lạng Giang