.

Thứ sáu, 03/05/2024 -17:24 PM

Một số vấn đề về thụ lý hồ sơ chuẩn bị xét xử sơ thẩm, trách nhiệm của Tòa án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa theo BLTTHS năm 2015

 | 

Thụ lý hồ sơ, chuẩn bị xét xử sơ thẩm được quy định tại Chương XXI của BLTTHS năm 2015. Theo đó, trách nhiệm của Toà án khi thụ lý hồ sơ, trách nhiệm của Thẩm phán chủ toạ phiên toà được phân công giải quyết vụ án, việc giải quyết các yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên toà được quy định rất cụ thể. Sau đây là một số nội dung cần lưu ý khi thực hiện công tác kiểm sát trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

1. Trách nhiệm của Toà án khi thụ lý hồ sơ chuẩn bị xét xử:

Đây là quy định mới so với BLTTHS năm 2003, khi Viện Kiểm sát giao cáo trạng, hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo (nếu có), Toà án có trách nhiệm:

- Trường hợp tài liệu trong hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo (nếu có) đã đầy đủ so với bảng kê tài liệu, vật chứng và bản cáo trạng đã được giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can thì nhận hồ sơ vụ án;

- Trường hợp tài liệu trong hồ sơ vụ án, vật chứng kèm theo (nếu có) không đủ so với bảng kê tài liệu, vật chứng hoặc bản cáo trạng chưa được giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can thì chưa nhận hồ sơ vụ án và yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, vật chứng; yêu cầu giao bản cáo trạng cho bị can hoặc người đại diện của bị can.

Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng thì Toà án phải thụ lý vụ án. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án Toà án phải phân công Thẩm phán chủ toạ phiên toà giải quyết vụ án.

2. Trách nhiệm của Thẩm phán chủ toạ phiên toà sau khi được phân công giải quyết vụ án:

- Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Giữ nguyên như BLTTHS năm 2003, cụ thể: 30 hoặc 45 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng; 02 hoặc 03 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Được gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử đối với những vụ án phức tạp nhưng không quá 15 hoặc 30 ngày tương ứng với hai trường hợp nêu trên. Trong trường hợp vụ án được trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ, Thẩm phán chủ toạ phiên toà phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bổ sung thêm thời hạn trong trường hợpphục hồi vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục chung và được tính kể từ ngày Toà án ra quyết định phục hồi vụ án. Thời hạn Toà án phải mở phiên toà là 15 ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử ( lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Toà án có thể mở phiên toà trong thời hạn 30 ngày).

- Về áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế: Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán chủ toạ phiên toà quyết định áp dụng thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế,trừ việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp tạm giam phải do Chánh án, Phó Chánh án Toà án quyết định.Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử nêu trên. Đối với bị cáo đang bị tạm giam đến ngày mở phiên toà thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần thiết tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên toà.

- Về tạm đình chỉ vụ án: Thẩm phán chủ toạ phiên toà ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 229 BLTTHS; bổ sung thêm lý do tạm đình chỉ vụ án nếu không biết bị can, bị cáo đang ở đâu mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử (trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can, bị cáo trước khi tạm đình chỉ vụ án)hoặc chờ kết quả xử lý văn bản pháp luật mà Toà án kiến nghị.Bổ sung thêm nội dung Quyết định tạm đình chỉ vụ án phải ghi rõ lý do tạm đình chỉ và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 BLTTHS.

- Về đình chỉ vụ án: Cơ bản vẫn giữ nguyên như BLTTHS năm 2003 về căn cứ, lý do đình chỉ như có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 BLTTHS (trong trường hợp bị hại rút yêu cầu) hoặc người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật hoặc đã chết; đã hết thời hiệu truy cứu TNHS; tội phạm đã được đặc xá; Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên toà... .

-Về phục hồi vụ án (Điều 283): Đây là quy định mới so với BLTTHS năm 2003, cần lưu ý:

Khi có lý do để huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ vụ án hoặc có lý do để huỷ quyết định đình chỉ vụ án nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì Thẩm phán đã ra quyết đình tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án ra quyết định phục hồi vụ án.

Trường hợp Thẩm phán đã ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án không thể thực hiện được thì Chánh án ra quyết định phục hồi.

Trường hợp tạm đình chỉ, đình chỉ đối với từng bị can, bị cáo thì ra quyết định phục hồi vụ án đối với từng bị can, bị cáo.

Quyết định phục hồi vụ án phải ghi rõ lý do phục hồi vụ án và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của BLTTHS.

Khi phục hồi vụ án, Toà án có quyền áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của BLTTHS.

Trường hợp có căn cứ theo quy định của BLTTHS cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi vụ án không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử.

- Về trả hồ sơ điều tra bổ sung: Thẩm phán chủ toạ phiên toà ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp như: Còn thiếu chứng cứ dùng để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại Điều 85 của BLTTHS mà không thể bổ sung tại phiên toà được; Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm; Có căn cứ cho rằng còn có đồng phạm hoặc có người khác thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can; Việc khởi tố, điều tra, truy tố vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; Quy định rõ trường hợp Viện kiểm sát phát hiện có căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì chủ động có văn bản đề nghị Toà án trả hồ sơ.

Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi rõ những vấn đề cần điều tra bổ sung và gửi cho Viện kiểm sát kèm theo hồ sơ vụ án trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định.

Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Toà án biết trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định.

Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới phải thay đổi quyết định truy tố thì Viện kiểm sát ban hành bản cáo trạng mới thay thế bản cáo trạng trước đó.

Trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung những vấn đề mà Toà án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Toà án tiến hành xét xử vụ án.

3. Trách nhiệm của Thẩm phán chủ toạ phiên toà đối với việc giải quyết yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên toà:

Đây là quy định mới so với BLTTHS năm 2003, một số quy định mới cần lưu ý là trước khi mở phiên toà, nếu có các yêu cầu, đề nghị liên quan đến vụ án thìThẩm phán chủ toạ phiên toà phải giải quyết các yêu cầu, đề nghị đó. Cụ thể là:

- Yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng về việc cung cấp, bổ sung chứng cứ; triệu tập người làm chứng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác đến phiên toà; về việc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án;

- Đề nghị của bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa về việc thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế;

- Đề nghị của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng về việc xét xử theo thủ tục rút gọn, xét xử công khai hoặc xét xử kín;

- Đề nghị của người tham gia tố tụng về việc vắng mặt tại phiên toà.

Nếu xét thấy yêu cầu, đề nghị có căn cứ thì Thẩm phán chủ toạ phiên toà giải quyết theo thẩm quyền hoặc thông báo cho người có thẩm quyền giải quyết theo quy định của Bộ luật này và thông báo cho người đã yêu cầu, đề nghị biết; nếu không chấp nhận thì thông báo cho họ bằng văn bản, nêu rõ lý do.

- Quy định mới (Điều 284) vềyêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ, theo đó, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa khi xét thấy cần bổ sung tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc giải quyết vụ án mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Thẩm phán chủ toạ phiên toà yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung.Việc yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ phải bằng văn bản, nêu rõ tài liệu, chứng cứ cần bổ sung và gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra văn bản yêu cầu. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của Toà án, Viện kiểm sát gửi cho Toà án tài liệu, chứng cứ được yêu cầu bổ sung. Trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được tài liệu, chứng cứ thì Toà án tiến hành xét xử vụ án.

Trên đây là một số vấn đề về thụ lý hồ sơ chuẩn bị xét xử sơ thẩm, trách nhiệm của Tòa án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa khi được phân công giải quyết vụ án hình sự.

Với quy định nêu trên đòi hỏi mỗi Kiểm sát viên cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, chú trọng nghiên cứu và thực hiện đầy đủ các quy định của BLTTHS năm 2015 nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được phân công góp phần giải quyết các vụ án hình sự đạt kết quả./.

Trần Thị Huệ- VKSND Lạng Giang

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:27,824,630
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.143.168.172

    Thư viện ảnh