ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Thứ sáu, 22/11/2024 -18:57 PM

Tòa án nhận định và quyết định giải quyết án mâu thuẫn nhau, Viện kiểm sát kháng nghị

 | 

Thông qua công tác kiểm sát giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” thấy như sau:

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Q trình bày: Năm 1984 bà kết hôn với ông Nguyễn Đình H. Năm 1985 vợ chồng bà được Hợp tác xã cấp cho một thửa đất tại thôn N để ở.Tại Bản án ngày 30/7/1988 của Tòa án nhân dân tỉnh H (nay là tỉnh B) đã giải quyết cho bà và ông H ly hôn, giao cho bà được quyền sử dụng đất ở. Sau đó bà chuyển đi nơi khác sinh sống, thỉnh thoảng bà có về quê. Đầu năm 2018 bà quay về quê để làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất nói trên thì mới biết gia đình ông Nguyễn Đình T đang ở trên mảnh đất của bà. Bà đã nhiều lần yêu cầu trả lại mảnh đất nhưng không được do ông T khẳng định đã mua mảnh đất hợp pháp. Bà không bán nhà đất cho vợ chồng ông T, bà đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông T phải trả cho bà thửa đất số 252, tờ bản đồ số 67, diện tích 833m2 tại thôn N. Phần diện tích đất ông T đã xây dựng nhà 03 tầng đề nghị giao cho ông T sử dụng và thanh toán trả cho bà bằng tiền.

Bị đơn là ông Nguyễn Đình T trình bày: Năm 1989 bà Q đã bán thửa đất diện tích khoảng 01 sào (360m2) và nhà lợp rạ gắn liền đất cho vợ chồng ông với số tiền là 220.000đ, khi mua bán có viết giấy nhưng nay không còn lưu giữ được. Năm 1993 vợ chồng ông xây dựng nhà cấp 4. Kể từ năm 1989 đến nay gia đình ông  sinh sống ổn định, không có tranh chấp gì trên thửa đất nói trên và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước. Đến cuối năm 2018 bà Q đến nhà ông đòi lại đất. Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Q. Về công sức bảo quản, tân tạo, xây dựng nhà cấp 4 ông không yêu cầu giải quyết.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà Nguyễn Thị D (vợ ông T); anh Nguyễn Đình T, chị Ngọ Thị Q (là các con ông T và D) đều trình bày ý kiến như ông T đã trình bày.

UBND xã C trình bày: Đất các đương sự tranh chấp có nguồn gốc là đất nông nghiệp do thôn N quản lý theo bản đồ giải thửa năm 1980. Theo bản đồ địa chính tháng 02/2013 là thửa đất số 252 tờ bản đồ số 67 diện tích 833m2, trong đó có 209,9m2 đất hành lang giao thông. Thửa đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nguồn gốc sử dụng từ năm 1980 UBND xã không có tài liệu lưu trữ quá trình sử dụng. Từ khi ông T sử dụng đến nay không chuyển nhượng cho ai.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Đình H trình bày về việc ông và bà Q kết hôn, được giao đất và ly hôn như bà Q đã trình bày. Diện tích đất ông và bà Q được giao 540 m2 đất ruộng và một mương nước giáp đường 295 hiện nay gia đình ông T đang sinh sống. Sau khi ly hôn Tòa án giao diện tích đất này cho bà Q sử dụng. Khoảng năm 1989 bà Q chuyển đi sống ở nơi khác, ông thấy ông T ra sinh sống trên thửa đất này. Ông H không chuyển nhượng, tặng cho diện tích đất này cho ông T.

Với nội dung vụ án nêu trên, Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện H đãxử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Q. Xác định bà Q có quyền sử dụng thửa đất số 252 tờ bản đồ số 76 địa chỉ thôn N.

Giao bà Q quản lý, sử dụng thửa đất diện tích 428,2m2 và tạm giao sử dụng diện tích 145,8 m2 đất hành lang giao thông… Bà Q được sở hữu tài sản gắn liền đất gồm 01 ngôi nhà cấp 4 + mái tôn; 01 sân bê tông; 01 sân gạch.

Giao ông T và bà D quản lý, sử dụng diện tích đất 195m2 và tạm giao ông T và bà D sử dụng diện tích 64m2 đất hành lang giao thông. Ông T và bà D có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Q giá trị quyền sử dụng đất 195m2 = 9.750.000đ.

Về nhà cấp 4, sân và công quản lý, tôn tạo, tân đất: Do ông T, bà D, anh T, chị Q không yêu cầu nên không giải quyết. Trường hợp các đương sự có yêu cầu thì giải quyết trong vụ án khác.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông T và bà D phải chịu  487.500đ. Bà Q phải chịu 1.070.000đ.

Qua xem xét nội dung vụ án và việc giải quyết vụ án của Tòa án thấy như sau:

Bà Q khởi kiện yêu cầu ông T phải trả cho bà thửa đất số 252, tờ bản đồ số 67, diện tích 833m2. Nhưng trong thửa đất này có 209,8m2 đất hành lang giao thông. Việc Tòa án xác định bà Q có quyền sử dụng toàn bộ thửa đất số 252 (gồm cả 209,8m2 đất hành lang giao thông) và xử tạm giao cho bà Q, ông T, bà D sử dụng đất hành lang giao thông là không đúng.

Trên thửa đất tranh chấp gia đình ông T đã xây dựng 01 ngôi nhà cấp 4, mái tôn ; 01 sân bê tông ; 01 sân gạch. Tổng giá trị là 33.000.000 đ. Do gia đình ông T không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà Q nên không yêu cầu Tòa án giải quyết các tài sản này. Do giải quyết giao đất cho bà Q nên Tòa án đã nhận định và xử cho bà Q được sở hữu các tài sản gắn liền với đất nêu trên. Nhưng sau đó Tòa án lại nhận định và quyết định các tài sản nhà cấp 4, sân do ông T, bà D và các con không yêu cầu nên không giải quyết. Trường hợp các đương sự có yêu cầu thì giải quyết trong vụ án khác. Như vậy, giữa nhận định và quyết định của Tòa án đối tài sản nhà cấp 4, sân là mâu thuẫn nhau. Đã giải quyết, sau lại ghi là không giải quyết.

Tòa án giải quyết giao cho bà Q sở hữu tài sản này, nhưng lại không buộc bà Q phải thanh toán giá trị bằng tiền 33.000.000đ cho gia đình ông T, là không đảm bảo quyền lợi cho gia đình ông T.

Tòa án đã xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Q, giao cho bà Q quản lý, sử dụng diện tích 428,2m2 = 21.410.000 đ. Giao cho ông T bà D được sử dụng 195m2 đất = 9.750.000đ, ông T bà D phải thanh toán trả bà Q 9.750.000đ. Nhưng Tòa án không buộc ông T bà D phải chịu toàn bộ án phí đối với yêu cầu của bà Q được chấp nhận mà lại xử buộc bà Q phải chịu 1.070.000đ tiền án phí đối với giá trị diện tích đất được giao và chỉ buộc ông T, bà D phải chịu 487.500đ tiền án phí là vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Để đảm bảo giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, Viện KSND huyện H đã ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm nêu trên của TAND huyện H, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án./.

Lương Thanh Hảo- Phòng 9, Viện KSND tỉnh Bắc Giang

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:31,421,161
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.144.4.54

    Thư viện ảnh