Khi kiểm sát việc Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang giải quyết vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tranh chấp quyền sử dụng đất”,giữa nguyên đơn bà Triệu Thị K với bị đơn ông Nguyễn Văn T. Đều địa chỉ ở thôn Vua Bà, xã Trường Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang (được xét xử tại Bản án dân sự phúc thẩm số 39/2025/DSPT ngày 04/3/2025), Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang thấy, như sau:
Ngày 24/10/2006, UBND huyện Lục Nam đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ),số AO 521432 cho ông Triệu Minh T và bà Nguyễn Thị T được quyền sử dụng thửa đất số 06, tờ bản đồ số K14,diện tích 60.500m2, mục đích sử dụng là đất rừng sản xuất; địa chỉ thửa đất tại Khe Đình, thôn Vua Bà, xã Trường Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Vợ chồng ông T, bà T đã chuyển nhượng cho bà Triệu Thị K 20.000m2 đất trong thửa đất nêu trên, nhưng hai bên chưa làm thủ tục chuyển nhượng sang tên trên GCNQSDĐ. Bà K và anh Phạm Văn M (con trai bà K), đã quản lý sử dụng đất. Năm 2006, anh M kết hôn với chị Nguyễn Thị X (là con gái ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị L). Bà K cho rằng, vợ chồng ông T, bà L đã lấn chiếm đất, xây nhà 2 tầng, bếp, công trình phụ trên diện tích khoảng 700m2 trong diện tích đất bà mua của vợ chồng ông T, bà T. Bà K khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông T, bà L phải tháo dỡ các công trình trên đất, trả đất cho bà. Ông T, bà L không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà K, vì cho rằng năm 2008 bà K đã chuyển nhượng cho ông bà 800m2 đất; ông bà đã xây dựng các công trình trên đất và quản lý sử dụng đất từ năm 2008 đến nay. UBND xã Trường Sơn xác nhận từ năm 2011 ông T, bà L đã xây dựng các công trình kiên cố, quản lý, sử dụng diện tích đất hai bên đang tranh chấp đến nay.
Ông T, bà L không cung cấp được chứng cứ chứng minh bà K đã chuyển nhượng đất cho ông bà. Bản sơ thẩm của TAND huyện Lục Nam đã xử giao cho ông T, bà L sử dụng diện tích 813,5m2 đất và trả cho bà Khánh giá trị bằng tiền, không buộc tháo dỡ công trình trên đất. Bà K không đồng ý bản án sơ thẩm, đã kháng cáo bản án sơ thẩm. TAND tỉnh Bắc Giang xác định, ông T và bà L sử dụng đất không đúng mục đích, xây dựng công trình nhà hai tầng có diện tích 147m2/sàn, xây bếp 43,29m2, làm sân bê tông, khu chăn nuôi...nay được định giá có tổng giá trị 803.902.000đ, trên đất rừng sản xuất. Nên đã chấp nhận kháng cáo của bà K, sửa bản án sơ thẩm, buộc ông T và bà L phải tháo dỡ các công trình trên đất, trả cho bà K 813,5m2 đất.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật về đất đai của ông T, bà L có một phần trách nhiệm của UBND xã và Chủ tịch UBND xã Trường Sơn, huyện Lục Nam các thời kỳ từ năm 2008 đến nay, đã không thực hiện đúng trách nhiệm của mình, không kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo thẩm quyền đối với hành vi xây dựng các công trình trên đất rừng sản xuất,sử dụng đất không đúng mục đích của vợ chồng ông T, bà L, là vi phạm các quy định tại khoản 2 Điều 143 Luật đất đai năm 2003; khoản 2 Điều 208 Luật đất đai năm 2013, điểm b khoản 1, khoản 3 Điều 241 Luật đất đai năm 2024.
Để khắc phục, phòng ngừa vi phạm tương tự trong việc sử dụng đất nói riêng và công tác quản lý nhà nước về đất đai nói chung; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân sử dụng đất;hạn chế thấp nhất việc phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai. Ngày 14/5/2025, Viện trưởng VKSND tỉnh Bắc Giang đã ban hành văn bản số 586/KN-VKS kiến nghị Chủ tịch UBND xã Trường Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang: Tăng cường chỉ đạo quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm quy định của pháp luật liên quan đến quản lý đất đai. Thường xuyên kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo thẩm quyền đối với hành vi sử dụng đất không đúng mục đích và hành vi vi phạm pháp luật đất đai khác của người sử dụng đất tại địa phương./.
Lương Thất Tùng- Phòng 9, VKSND tỉnh Bắc Giang