Theo quyết định của bản án dân sự sơ thẩm giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản, ông H phải trả cho ông L số tiền 1.300.000.000đ. Do ông H không tự nguyện thi hành án, ông L đã có đơn đề nghị cơ quan thi hành án dân sự huyện V thi hành bản án cho ông. Chi cục thi hành án dân sự huyện V đã có quyết định về việc cho thi hành đối với việc ông H phải trả tiền cho ông L và ra quyết định cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của ông H để đảm bảo việc thi hành án (ông H đã được UBND huyện V cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Do tài sản nhà đất này ông H đã ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông P; hợp đồng được UBND xã T chứng thực; ông P chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà đất nên Chi cục thi hành án dân sự huyện V đã có văn bản thông báo cho ông L được quyền khởi kiện yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông H và ông P là vô hiệu.
Ông L cho rằng việc ông H ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất cho ông P nhằm mục đích tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho ông. Nên ông L khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện V (TAND) hủy việc chứng thực của UBND xã T vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng nhà đất giữa ông H và ông P. Huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng nhà đất giữa ông H và ông P.
Ông H, ông P đều không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông L.
UBND xã T trình bày việc UBND xã chứng thực hợp đồng là đúng quy định của pháp luật.
Với nội dung vụ án nêu trên, TAND huyện V đã thụ lý vụ án theo yêu cầu khởi kiện của ông L và xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu và huỷ bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” và xác định nguyên đơn là ông L; bị đơn là ông H, ông P và UBND xã T.
Tòa án đã mở phiên tòa xét xử vụ án. Tại Bản án dân sự sơ thẩm,TAND huyện V đã nhận định cho rằng ông L không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186, 187 Bộ luật tố tụng dân sự. Nên đã việc dẫn các Điều 9, Điều 105, Điều 106, Điều 136 Luật đất đai năm 2003; khoản 11 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 186, điều 187, điểm a khoản 1 Điều 192, điểm g khoản 1 Điều 217, khoản 1 Điều 227, Điều 244, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Xử: Đình chỉ giải quyết vụ án. Trả lại ông L đơn khởi kiện và 200.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Xem xét việc Tòa án giải quyết vụ án thấy, căn cứ theo các quy định:
Tại Khoản 2 Điều 75 Luật thi hành án dân sự ngày 29/6/2018 đã quy định về giải quyết tranh chấp, yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành ánnhư sau:“2. Trường hợp có căn cứ xác định giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án để yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó”.
Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về Quyền khởi kiện vụ án: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Khoản 3, 12 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự; tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Nên có cơ sở để xác định yêu cầu khởi kiện của ông L là: Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự; tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Ông L có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Những yêu cầu ông L khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Việc Tòa án đã thụ lý vụ án theo yêu cầu khởi kiện của ông L, sau đó lại nhận định cho rằng ông L không có quyền khởi kiện theo Điều 186, 187 Bộ luật tố tụng dân sự để đình chỉ giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện cho ông L là không đúng các quy định đã viện dẫn nêu trên; không đảm bảo quyền khởi kiện của ông L.
Tài sản ông L khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng đang bị Chi cục thi hành án dân sự huyện V ra quyết định cưỡng chế biên. Nên việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền, nghĩa vụ Chi cục thi hành án dân sự huyện V. Nhưng khi giải quyết vụ án, Tòa án không đưa Chi cục thi hành án dân sự huyện V vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là không đúng quy định tại khoản 6 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án nhưng không ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án mà lại ban hành bản án là không đúng quy định tại Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự; mẫu số 46-DS ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao.
Do Tòa án có những sai sót trong việc giải quyết vụ án, để đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất; đảm bảo quyền khởi kiện của người dân, Viện KSND huyện V đã ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm của TAND huyện V theo hướng đề nghị TAND tỉnh B xét xử phúc thẩm, xử hủy Bản án dân sự sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
Nguyễn Thị Tuyết- Phòng 9