ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Thứ sáu, 22/11/2024 -13:05 PM

Nhận diện một số dạng vi phạm trong công tác quản lý nhà nước về đất đai thông qua công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính

 | 

Nhận diện vi phạm thông qua công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết án hành chính về khiếu kiện các quyết định hành chính liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thẩm quyền giải quyết về tranh chấp đất đai của UBND các cấp.

Vụ án thứ nhất: Ngày 07/8/1994 ông Nguyễn Đức Khuy, ở thôn Trường Khanh A, xã Đông Hưng, huyện Lục Nam được thôn Trường Khanh A giao thầu sử dụng 3.198m2 đất bãi, thời hạn sử dụng là 20 năm. Năm 1997, gia đình ông Khuy được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) lâm nghiệp, lô 43 + 40 khoảnh 7b, diện tích là 9.200m2 (trong đó có phần đất giao thầu năm 1994, phần còn lại do gia đình khai phá). Ngày 10/4/2001 UBND huyện Lục Nam cấp GCNQSDĐ ngày 10/4/2001 thửa VIIb-43 và VIIb-40 cho hộ ông Khuy. Năm 2014, với lý do thời hạn giao thầu 3.198m2 đất bãi đã hết, Trưởng thôn Trường Khanh A đã  có đơn gửi đến UBND huyện Lục Nam yêu cầu gia đình ông Khuy phải trả lại cho thôn thửa đất mà gia đình ông Khuy đã nhận giao thầu. Ngày 02/10/2017, UBND huyện Lục Nam đã ban hành Quyết định số 1898/QĐ-UBND về việc thu hồi GCNQSDĐ đã cấp cho hộ ông Khuy nêu trên (Quyết định số 1898) với lý do “đất được cấp không đúng... có một phần diện tích đất công ích...”. Ngày 26/10/2017, ông Khuy có đơn khiếu nại Quyết định số 1898. Ngày 23/01/2018, Chủ tịch UBND huyện Lục Nam ban hành Quyết định số 166/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại, không chấp nhận khiếu nại của ông Khuy (Quyết định số 166).

Không đồng ý, ông Khuy khởi kiện và Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Khuy, hủy Quyết định số 1898 và Quyết định số 166.

Vụ thứ hai: Ngày 20/12/1999, UBND huyện Việt Yên cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 335 diện tích 300m2 đất ở và thửa số 247 diện tích 777m2 đất vườn (tổng diện tích là 1.077m2) cho hộ ông Giáp Văn Thuật; cấp GCNQSDĐ đối với thửa số 244 diện tích 1.355m2 cho hộ ông Giáp Văn Giới đều ở thôn 6, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên.

Năm 2009, ông Giới cho rằng một phần diện tích đất của ông Thuật đang sử dụng đã được cấp GCNQSDĐ là diện tích đất hộ gia đình ông Giới mua của thôn năm 1996 nên đã có đơn khiếu nại gửi UBND xã Việt Tiến, UBND huyện Việt Yên đề nghị xem xét giải quyết.

Qua nhiều lần giải quyết, ngày 17/8/2012 UBND huyện Việt Yên đã ra Quyết định số 585/QĐ-UBND thu hồi GCNQSDĐ đã cấp cho ông Thuật, ông Giới nêu trên. Vì việc cấp GCNQSDĐ không đúng (do thôn bán đất trái thẩm quyền). Ông Thuật có đơn khiếu nại.

Ngày 25/8/2014, Chủ tịch UBND huyện Việt Yên ban hành Quyết định số 4927/QĐ-UBND về việc xác minh, giải quyết tranh chấp QSDĐ giữa ông Giới và ông Thuật (Quyết định số 4927) có nội dung “Công nhận quyền sử dụng 595,9m2 đất tại khu ao Đình Dưới ... cho ông Giới; công nhận 239,7m2 tại khu ao Đình Dưới... cho ông Thuật...; Giao cho Chủ tịch UBND xã Việt Tiến ... hướng dẫn 2 hộ gia đình hoàn thiện thủ tục cấp GCNQSDĐ theo quy định”. 

Không đồng ý với Quyết định số 4927, ông Thuật có đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang. Ngày 27/5/2015, Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định số 920/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Thuật và ông Giới (lần 2), (Quyết định số 920): “Thống nhất nội dung Quyết định số 4927/QĐ-UBND …”. Ông Thuật tiếp tục có đơn khiếu nại nên ngày 16/8/2017, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang ban hành văn bản số 2796/UBND-TCD về việc giải quyết đơn của ông Thuật (Văn bản 2796), giữ nguyên Quyết định số 920.

Ngày 18/5/2018, Chủ tịch UBND huyện Việt Yên ban hành Quyết định số 2284/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thi hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai có hiệu lực pháp luật đối với ông Thuật (Quyết định số 2284)  

Ngày 08/12/2015 UBND huyện Việt Yên ban hành Quyết định số 1635/QĐ-UBND về việc cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Giới thửa đất số 350, tờ bản đồ số 20, diện tích 271,9m2; địa chỉ thửa đất: Thôn 6, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên (diện tích đất đang tranh chấp với ông Thuật).

Không đồng ý, ông Thuật khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 2284; Quyết định số 4927; Quyết định số 920; Văn bản số 2796 nêu trên và được Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện.

Vụ thứ ba:Trước năm 1990 bà Nguyễn Thị Khanh sử dụng 295m2 đất tại thửa số 127, tờ bản đồ số 25 tại khu vực Núi Sẻ, thôn Phú Độ, xã Phi Mô, huyện Lạng Giang theo bản đồ địa chính xã Phi Mô đo đạc năm 1992. Năm 1993 hộ bà Khanh được UBND huyện Lạng Giang cấp GCNQSDĐ diện tích1.405m2 đất ở và đất nông nghiệp (trong đó có thửa đất số 127, diện tích 295m2 và 04 thửa đất nông nghiệp, không có thửa số 190, diện tích 1.540m2).   

Năm 2003 xã Phi Mô tiến hành đo đạc bản đồ địa chính . Thửa đất số 190, diện tích 1.540m2 do ông Nguyễn Văn Dương, bà Đỗ Thị Ngọt và ông Nguyễn Tiến Dũng sử dụng được đo vẽ thành số thửa mới là số 45, diện tích 1.641,1m2, tờ bản đồ số 21 (ông Dương, bà Ngọt là bố mẹ của bà Khanh và ông Dũng), trong đó anh Dũng đãđược cấp GCNQSDĐ 770m2 đất vào năm 1993.

Sau đó, bà Khanh tự ý kê khai và được UBND huyện cấp GCNQSDĐ ngày 22/12/2003 thửa đất số 45, diện tích 1.641,1m2 (gồm 300m2 đất ở, 1.341,1m2 đất vườn). Ngày 13/4/2016, bà Khanh lập Hợp đồng tặng cho QSDĐ và tài sản gắn liền với đất cho con là anh Nguyễn Quốc Khánh thửa đất 45, diện tích 1.641,1m2 và được UBND xã Phi Mô chứng thực cùng ngày. Ngày 05/5/2016, Chi nhánh Văn phòng đăng ký QSDĐ huyện đã xác nhận QSDĐ cho anh Khánh tại trang 4 GCNQSDĐ nêu trên.

Tháng 5/2016, ông Dũng phát hiện và đã gửi đơn đề nghị UBND xã Phi Mô xem xét, giải quyết việc UBND huyện Lạng Giang cấp GCNQSDĐ năm 2003 cho bà Khanhthửa đất số 45, diện tích 1.641,1m2 chồng vào diện tích 770m2 đất ở của ông đã được UBND huyện cấp GCNQSDĐ năm 1993.

Ngày 29/9/2016, UBND xã Phi Mô có Báo cáo số 64/BC-UBND gửi UBND huyện Lạng Giang về kết quả kiểm tra nguồn gốc, quá trình cấp GCNQSDĐ của hộ ông Dũng, đã xác định ông Dũng được UBND huyện cấp GCNQSDĐ năm 1993 diện tích 770m2 đất ở thửa đất số 190, tờ bản đồ số 25; việc cấp GCNQSDĐ cho bà Khanh năm 2003 thửa đất số 45, diện tích 1.641,1m2, trong đó chồng vào đất của ông Dũng đã được cấp GCNQSDĐ năm 1993 diện tích 770m2; đề nghị UBND huyện xem xét thu hồi GCNQSDĐ đã cấp cho bà Khanh.

Trên cơ sở báo cáocủa Phòng Tài nguyên và Môi trường, Thanh tra huyện.Ngày 20/01/2017, UBND huyện có Thông báo số 71/UBND-TNMT (Thông báo số 71) cho bà Khanh, anh Khánh kết quả thẩm tra trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ cho bà Khanh, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo này mà hộ gia đình không có khiếu nại thì UBND huyện sẽ ra quyết định thu hồi GCNQSD đất cấp ngày 22/12/2003 cho hộ bà Khanh.

Ngày 06/6/2017, Chủ tịch UBND huyện có Công văn số 657/UBND-TNMT trả lời đơn của anh Khánh, có nội dung giữ nguyên nội dung Thông báo số 71.

Ngày 29/9/2017 UBND huyện ban hành Quyết định số 715/QĐ-UBND về việcthu hồi GCNQSDĐ đối với hộ bà Khanh, ông Khánh.

Không đồng ý, anh Khánh đã khởi kiện đề nghị Tòa án hủy Quyết định số 715 nêu trên. Tòa án xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Khánh.

Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính nêu trên thấy cơ quan quản lý nhà nước về đất đai có những vi phạm như:

* Về vi phạm trong việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:

- Năm 1996, Ban lãnh đạo thôn 6, xã Việt Tiến bán đất ao, thùng vũng cho hộ ông Thuật và ông Giới. Ngày 20/12/1999 UBND huyện Việt Yên cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Thuật, hộ ông Giới. Năm 2009-2010, ông Thuật đã tân tạo thùng vũng, xây công trình trên đất. Ông Giới cho rằng diện tích đất mà ông Thuật được cấp GCNQSDĐ có một phần diện tích đất của ông nên có đơn khiếu nại. UBND huyện Việt Yên đã quyết định thu hồi 02 GCNQSDĐ đã cấp cho hộ ông Giới, ông Thuật với lý do việc cấp giấy chứng nhận không đúng (do thôn bán đất trái thẩm quyền). Từ năm 2009 đến năm 2015, UBND huyện Việt Yên và UBND tỉnh Bắc Giang đã ban hành nhiều quyết định giải quyết khiếu nại của ông Giới và ông Thuật. Trong khi việc tranh chấp đất đai chưa được giải quyết xong, trên đất vẫn có tài sản của hộ ông Thuật, nhưngngày 08/12/2015  UBND huyện Việt Yên đãban hành Quyết định số 1635/QĐ-UBND về việc cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Giới là không đúng quy định của pháp luật, vi phạm quy định tại Điều 99, 100, 101 Luật Đất đai năm 2013.

- Năm 1993, UBND huyện Lạng Giang đã cấp GCNQSDĐ cho ông Dũng diện tích 770m2 đất ở lâu dài thửa số 190, tờ bản đồ số 25 tại xã Phi mô, huyện Lạng Giang. Nhưng bà Khanh lại kê khai và được UBND huyện cấp GCNQSDĐ ngày 22/12/2003 tại thửa đất số 45, diện tích 1.641,1m2 trong đó cấp chồng vào diện tích 770m2 đất ông Dũng đã được cấp GCNQSDĐ năm 1993 là xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của ông Dũng; vi phạm quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013; khoản 5 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.

* Về vi phạm thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

Từ tháng 8/2011 đến năm 2015, hộ ông Thuật và ông Giới xảy ra tranh chấp quyền sử dụng đất như đã nêu trên. Đối với hộ ông Khuy sử dụng diện tích đất 3.198m2 ổn định từ năm 1994, không có tranh chấp, được UBND huyện Lục Nam cấp GCNQSDĐ ngày 10/4/2001. Đến năm 2014 thôn Trường Khanh A cho rằng một phần diện tích đất của hộ ông Khuy đã được cấp GCNQSDĐ là đất của thôn nên có đơn khiếu nại đến UBND huyện Lục Nam yêu cầu ông Khuy trả lại đất. 

Tại thời điểm xảy ra tranh chấp quyền sử dụng đất hộ ông Thuật, hộ ông Giới, hộ ông Khuy đều đã được UBND cấp GCNQSDĐ, trên đất có tài sản, đã được hòa giải nhưng không thành. Do đó trong cả hai trường hợp này, đều phải xác định là tranh chấp dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân.

Việc UBND huyện Lục Nam ban hành quyết định thu hồi GCNQSDĐ của ông Khuy vì cho rằng đây là đất công ích do UBND xã Đông Hưng quản lý (trên thực tế diện tích đất cấp cho ông Khuy không phải đất công ích và UBND xã Đông Hưng không quản lý) và việc UBND huyện Việt Yên giải quyết khiếu nại, quyết định công nhận quyền sử dụng đất của ông Giới và ông Thuật là không đúng thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013, theo đó tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại UBND cấp xã mà không thành thì giải quyết như sau: "Tranh chấp đất đai mà đương sự có giấy chứng nhận hoặc có một trong các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết".

Như vậy, UBND huyện Lục Nam, Việt Yên và Lạng Giang đều có thiếu sót, vi phạm trong việc cấp GCNQSDĐ và thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.Tôi xin tổng hợp các dạng vi phạm để đồng nghiệp cùng tham khảo.

Giáp Thị Thủy- Phòng 10

 

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:31,417,276
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.143.218.115

    Thư viện ảnh