Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp chia tài sản chung sau li hôn" giữa nguyên đơn chị Trần Thị Bích N, bị đơn là anh Nguyễn Chính L và 13 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Viện KSND tỉnh Bắc Giang thấy rằng, Tòa án có vi phạm, thiếu sót trong việc giải quyết vụ án cụ thể như sau:
Chị N và anh L kết hôn với nhau năm 1996. Sau quá trình chung sống đã phát sinh mâu thuẫn, chị N đã khởi kiện và được Tòa án giải quyết cho chị N và anh L được ly hôn. Sau khi ly hôn, do không tự thỏa thuận phân chia được với nhau về tài sản, công nợ nên chị N khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết phân chia tài sản, công nợ cho chị và anh L.
Trong quá trình giải quyết giữa chị N và anh L đã có lời khai thống nhất về việc anh chị có một số tài sản chung, nợ chung. Ngoài ra chị N cho rằng chị và anh L có một số tài sản chung và nợ chung khác yêu cầu được phân chia. Nhưng anh L cho rằng đấy là tài sản riêng của anh và là nợ riêng của chị N, anh không đồng ý phân chia và không đồng ý trả nợ cùng với chị N.
10 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án đều có lời khai trình bày về việc đã cho chị N và anh L vay số tiền tổng cộng là 6 tỷ đồng và đều có yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết buộc chị N và anh L phải trả nợ tiền gốc và tiền lãi phát sinh.
Nhưng Tòa án chỉ thông báo yêu cầu 02 người/10 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nộp tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu độc lập, họ đã nộp tiền tạm ứng án phí và Tòa án xác định 02 người này là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
08 người/10 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chỉ có 04 người thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí. Còn lại 04/10 người không thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí. Nhưng Tòa án không thông báo, không yêu cầu họ nộp tiền tạm ứng án phí, không xác định họ 08/10 người là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Nhưng vẫn giải quyết buộc chị N, anh L phải thanh toán trả tiền cho 04/10 người (không thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí) là không đúng quy định tại khoản 1, 2 Điều 73; khoản 1 Điều 146 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tòa án đã giải quyết buộc chị N, anh L còn phải trả nợ chung tổng số 5.575.880.000đ. Theo quy định chị N và anh L mỗi người phải chịu số tiền án phí dân sự sơ thẩm 56.787.000đ đối với số tiền phải có nghĩa vụ trả nợ. Nhưng Tòa án lại chỉ buộc chị N, anh L mỗi người phải chịu số tiền án phí 18.676.325đ đối với nghĩa vụ trả nợ cho 01 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, là không đúng quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Tòa án còn có các sai sót khác như sau: Tại phần nêu nội dung vụ án, Tòa án không trích nêu ý kiến, yêu cầu của một người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (chị H) là không đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự.
Ban đầu người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (chị H, bà T) có yêu cầu đòi chị N và anh L phải trả tiền lãi, sau đó rút yêu cầu đòi tiền lãi. Nhưng khi giải quyết vụ án, Tòa án không áp dụng khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự để đình chỉ xét xử đối với yêu cầu đòi tiền lãi của chị H, bà T.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (chị Q, anh T) có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị N, anh L trả tiền. Chị Q, anh T vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, bị coi như từ bỏ yêu cầu khởi kiện. Nhưng Tòa án không đình chỉ giải quyết yêu cầu của chị Q, anh T mà vẫn giải quyết là không đúng quy định tại điểm d khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
Để đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; Viện KSND tỉnh Bắc Giang đã ban hành văn bản kháng nghị phúc thẩm đối với toàn bộ bản án sơ thẩm của TAND huyện L giải quyết vụ án nêu trên; đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xử hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án./.
Nguyễn Thị Tuyết- Phòng 9