Bà Nguyễn Thị C kết hôn với ông Khúc Văn T năm 1991 và sinh được hai người con là Khúc Thị H và Khúc Văn P. Năm 2002 vợ chồng ông T, bà C có nhận chuyển nhượng 135m2 đất tại thôn Ải của ông Khúc Văn C (anh trai ông T). Ngày 06/6/2007 Ủy ban nhân dân huyện L đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI 652954, diện tích 135m2 cho hộ ông T, bà C. Do trong quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn, ngày 31/10/2012 vợ chồng ông T, bà C đã được Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội giải quyết cho ly hôn. Về tài sản chung do các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.
Bà C cho rằng, khoảng tháng 7/2012 ông T mang tiền của vợ chồng về xây dựng nhà cấp 4 trên diện tích đất 135m2 ở thôn Ải.
Ngày 16/3/2014 ông T chết. Sau khi ông T chết thì ông C quản lý tài sản là diện tích 135m2 đấtvànhà cấp 4 vì cho rằng ông T đã lập di chúc để lại tài sản cho ông.
Nguyên đơn bà C khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố di chúc của ông T là không hợp pháp và vô hiệu toàn bộ; công nhận cho bà và các con là người có quyền sử dụng, sở hữu diện tích đất 135m2 đất, nhà cấp 4 cùng các tài sản gắn liền với đất.Yêu cầu ông Chiến trả lại các tài sản này.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập chị H và anh P đều trình bày: Di sản mà ông T để lại là 135m2 đất, một nhà cấp 4 có nguồn gốc công sức đóng góp của anh chị, là tài sản chung của gia đình. Đề nghị Tòa án tuyênbố di chúc của ông T là không hợp pháp; Công nhận quyền thừa kế của anh chị đối với di sản của ông T; Yêu cầu ông C trả lại tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho anh chị.
Bị đơn ông C không đồng ý với yêu cầu của bà C, chị H, anh P. Ông đề nghị Tòa án công nhận di chúc của ông T là hợp pháp, công nhận cho ông có quyền sử dụng, sở hữu khối di sản mà ông T để lại theo nội dung di chúc.
Như vậy, các đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp trong đó có tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng 135m2 đất ông T bà C đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo sơ đồ hiện trạng thửa đất các đương sự tranh chấp, thể hiện thửa đất của ông T, bà C có cạnh phía bắc tiếp giáp với hành lang giao thông đường quốc lộ 31. Phần đất hành lang giao thông tiếp giáp với đất của ông T bà C có diện tích 145m2.
Các đương sự đều không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết phần diện tích đất hành lang giao thông. Ông T, bà C không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giao quản lý sử dụng 145m2 đất hành lang giao thông.
Tại phần nêu nội dung vụ án và phần nhận định của bản án sơ thẩm, Tòa án không nêu và nhận định nội dung liên quan đến diện tích đất hành lang giao thông 145m2. Nhưng tại phần quyết định của bản án, Tòa án lại giải quyết tạm giao cho bà C, chị H và anh P quản lý và sử dụng 145m2 đất thuộc hành lang giao thông Quốc lộ 31.
Việc Tòa án giải quyết tạm giao cho bà C, anh P và chị H quản lý và sử dụng 145m2 đất hành lang giao thông là giải quyết ngoài phạm vi yêu cầu của đương sự; không có căn cứ, không đúng quy định của pháp luật; vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự.
Viện KSND tỉnh B đã quyết định kháng nghị một phần Bản ándân sự sơ thẩm của Toà án. Đề nghị Toà án nhân dân tỉnh B giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, xử sửa Bản ándân sự sơ thẩm, không tạm giao đất hành lang giao thông các đương sự./.
Nguyễn Thị Tuyết- Phòng 9