ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Thứ bảy, 23/11/2024 -01:15 AM

Viện kiểm sát kháng nghị bản án dân sự sơ thẩm do Tòa án giải quyết buộc đương sự thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại không đúng

 | 

Nguyên đơn ông B cho rằng, ngày 10/02/2019 ông có cho ông S vay 300.000.000đ, với lãi suất 1,5%/tháng, thời hạn vay 01 năm. Sau khi vay, ông S chưa thanh toán trả tiền gốc và lãi. Đến ngày 10/8/2019 ông S chết. Tài sản của ông S đang do bà L và anh X (là vợ và con ông S) quản lý, sử dụng. Ông đã yêu cầu bà L và anh X phải thanh toán trả cho ông số tiền ông S còn nợ. Nhưng bà L và anh X không thanh toán. Nên ông khởi kiện yêu cầu bàL và anh X phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán trả cho ông 300.000.000đ. Ông B đã giao nộp giấy biên nhận ông S ký nhận vay tiền để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình.

Bị đơn bà L trình bày, bà kết hôn với ông S từ năm 1993 và bà sinh được một người con chung với ông S là anh X. Bố mẹ đẻ ông S đều đã chết từ năm 1990. Vợ chồng chung sống trên đất do bố mẹ ông S để lại. Quá trình chung sống bà và ông S đã xây dựng nhà cửa, công trình trên đất. Bà không biết việc ông S vay mượn tiền của ông B, không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông B.

Bị đơn anh X khai, anh không biết việc ông S vay mượn tiền của ông B. Anh không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông B.

Tòa án đã thu thập các tài liệu chứng cứ khác là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện L cấp cho ông S được quyền sử dụng 300m2 đất ở và tiến hành định giá tài sản 300m2 đất có giá trị 100.000.000đ; các tài sản trên đất trị giá 120.000.000đ; trưng cầu giám định chữ ký người vay trên giấy biên nhận vay tiền do ông B xuất trình. Tại Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B kết luận: Dấu vân mầu đỏ bên trái in dưới mục “Người vay tiền” trên các tài liệu cần giám định so với dấu vân tay in ở ô ngón trỏ trái trên bản sao “Chỉ bản” và “Giấy chứng minh nhân dân” mang tên ông S là của cùng một người.

Với nội dung vụ án nêu trên,Tòa án nhân dân huyện L đã áp dụng các Điều

Điều 463; Điều 466; Điều 470;Điều 611; Điều 613; Điều 614; Điều 615; khoản 3 Điều 623; Điều 651Bộ luật dân sự năm 2015. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B. Buộc bà L và anh X cùng có nghĩa vụ trả nợ cho ông B số tiền 300.000.000đ  và chỉ phải trả nợ trong phạm vi di sản do ông S để lại.

Xem xét nội dung vụ án và việc giải quyết vụ án của Tòa án, thấy rằng: Căn cứ lời khai của ông B và các tài liệu chứng cứ do ông B giao nộp; kết luận giám định của cơ quan công an, có cơ sở để xác định giữa ông B (bên cho vay) và ông S (bên vay) đã xác lập hợp đồng vay tài sản với tổng số tiền gốc là 300.000.000đ, vay có lãi và có thời hạn. Sau khi vay ông Sáu chưa thanh toán trả tiền gốc, lãi cho ông B.

Ngày 10/8/2019 ông S chết không để lại di chúc. Ông S có để lại tài sảngồm có 300m2 đất trị giá 100.000.000đvà ½ giá trị tài sản trên đất bằng 60.000.000đ (các tài sản trên đất là tài sản chung của bà L và ông S). Tổng cộng giá trị di sản của ông S là 160.000.000đ.

Hàng thừa kế thứ nhất của ông S là bà L và anh X. Các tài sản là di sản của ông S chưa được phân chia, hiện do bà L và anh X quản lý, sử dụng. Số tiền ông S nợ ông B 300.000.000đ là nhiều hơn giá trị di sản ông S để lại. 

Căn cứ theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 615 Bộ luật dân sự quy định về việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lạithì bà L và anh X là những người hưởng thừa kế của ông S có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do ông S để lại là 160.000.000đ, tức là bà L và anh X chỉ phải có nghĩa vụ thanh toán trả cho ông B 160.000.000đ.

Tại phần nhận định của bản án, Tòa án đã nhận định là bà L và anh X chỉ phải thanh toán trả tiền nợ của ông S trong phạm di sản do ông S để lại. Nhưng lại xử buộcbà L và anh X cùng có nghĩa vụ trả nợ cho ông B với số tiền là 300.000.000 đồng và chỉ phải trả nợ trong phạm vi di sản do ông S để lại là tuyên án mâu thuẫn nhau, không rõ ràng, không cụ thể số tiền bà L và anh X phải trả cho ông B; gây khó khăn cho việc thi hành án sau này.

Để đảm bảo giải quyết vụ án có căn cứ, đúng pháp luật và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự, Viện KSND huyện L đã ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với Bản án dân sự sơ thẩm của TAND huyện L giải quyết vụ án nêu trên. Đề nghị TAND tỉnh B xét xử phúc thẩm, sửa Bản án sơ thẩm buộc bà L, anh X phải thực hiện nghĩa vụ do ông S chết để lại, trả cho ông B số tiền là 160.000.000đ./.

Nguyễn Thị Tuyết- Phòng 9, Viện KSND tỉnh Bắc Giang

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:31,425,083
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.14.249.124

    Thư viện ảnh