Ngày 23/5/2013, Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Y ra bản án số 03/2013/HNGĐ-ST quyết định Giao cho bà A được quyền sử dụng diện tích đất 136m2 (diện tích đất này hiện do ông B đang quản lý và sử dụng) và tài sản trên đất có tổng giá trị là 462.380.000đ. Nhưng bà A phải có trách nhiệm trích chia tiền chênh lệch về tài sản cho ông B số tiền 91.573.500đ. Ông B phải trả cho bà A 1.000.000đ tiền chi phí định giá tài sản khi ly hôn.
Ngày 25/10/2013, bà A có đơn yêu cầu thi hành án gửi Chi cục THADS huyện X. Ngày 28/10/2013, Chi cục THADS huyện X ra Quyết định thi hành án số 31/QĐ-CCTHADS cho thi hành đối với ông B đối với các khoản mà bà A được hưởng theo bản án (136m2 đất, tài sản trên đất và 1.000.000đ tiền chi phí định giá tài sản khi ly hôn).
Quá trình tổ chức thi hành án, ngày 22/4/2014, bà A có đơn xin rút đơn yêu cầu thi hành án về các khoản như trong Quyết định thi hành án số 31/QĐ-CCTHADS ngày 28/10/2013 của Chi cục THADS huyện X. Tại biên bản về việc người được thi hành án tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án lập hồi 10 giờ 30 phút ngày 22/4/2014 tại Chi cục THADS huyện X thể hiện việc bà A tự nguyện rút đơn yêu cầu thi hành án và hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Do vậy, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự năm 2008, Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện X đã ra Quyết định đình chỉ thi hành án số 26/QĐ-CCTHADS ngày 22/4/2014.
Đến ngày 15/4/2018, bà A lại có đơn yêu cầu thi hành án, đề nghị Chi cục THADS huyện X giao tài sản cho bà theo bản án số 03/2013/HNGĐ-ST ngày 23/5/2013 của Tòa án nhân dân huyện X. Trong đơn, bà A trình bày về việc ngày 29/10/2013, Chấp hành viên đến nhà bà A giao cho bà Quyết định thi hành án số 31/QĐ-CCTHADS. Bà A có đề nghị được trả dần số tiền chênh lệch về tài sản là 91.573.500đ cho ông B nhưng Chấp hành viên trả lời là bà A phải nộp đủ số tiền trả ông B như trên thì mới được giao tài sản theo bản án. Nội dung đơn xin rút đơn yêu cầu thi hành án là do Chấp hành viên đọc cho bà A viết.
Tại Kết luận kiểm tra chuyên đề tại Chi cục THADS huyện X số 611/KL-ĐKT ngày 24/5/2018 của Đoàn kiểm tra Cục THADS tỉnh Y kết luận Quyết định đình chỉ thi hành án số 26/QĐ-CCTHADS ngày 22/4/2014 của Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện X vi phạm điểm c khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự. Cục THADS tỉnh Y cho rằng Quyết định đình chỉ thi hành án số 26/QĐ-CCTHADS đã ảnh hưởngđến quyền, lợi ích của ông B và nghĩa vụ cũng như quyền lợi của bà A, nên ngày 18/6/2018 Cục THADS tỉnh Y ra Quyết định số 01/QĐ-CTHADS về việc hủy quyết định về thi hành án. Theo đó, Cục thi hành án dân sự tỉnh Y quyết định hủy toàn bộ Quyết định đình chỉ thi hành án số 26/QĐ-CCTHADS ngày 22/4/2014 của Chi cục THADS huyện X. Lý do hủy: Để tiếp tục tổ chức thi hành Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 31/QĐ-CCTHADS ngày 28/10/2013 của Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự huyện X.
Vậy, việc Cục THADS tỉnh Y ra Quyết định số 01/QĐ-CTHADS ngày 18/6/2018 về việc hủy quyết định về thi hành án có căn cứ hay không?
Quan điểm thứ nhất: Cục THADS tỉnh Y ra Quyết định số 01/QĐ-CTHADS ngày 18/6/2018 về việc hủy quyết định về thi hành án là có căn cứ. Bởi lẽ: Ngoài việc bà A được hưởng quyền lợi theo Quyết định thi hành án số 31/QĐ-CCTHADS ngày 28/10/2013 thì bà còn phải thực hiện nghĩa vụ trả ông B 91.573.500đ tiền chênh lệch về tài sản. Việc ra Quyết định đình chỉ về thi hành án số 26/QĐ-CCTHADS ngày 22/4/2014 đã ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của ông B và bà A.
Quan điểm thứ hai: Cục THADS tỉnh Y ra Quyết định số 01/QĐ-CTHADS ngày 18/6/2018 về việc hủy quyết định về thi hành án là không có căn cứ. Bởi lẽ: Việc bà A rút đơn yêu cầu thi hành án là hoàn toàn tự nguyện, trong hồ sơ không có tài liệu xác minh việc bà A rút đơn yêu cầu thi hành án có lỗi của Chấp hành viên như bà A trình bày, Chi cục THADS huyện X ra Quyết định đình chỉ thi hành án số 26/QĐ-CCTHADS ngày 22/4/2014 là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Không có căn cứ xác định việc Chi cục THADS huyện X ra quyết định đình chỉ trong trường hợp này “ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba” theo điểm c khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự năm 2008.
Cá nhân tôi đồng ý với quan điểm thứ hai, rất mong nhận được ý kiến đóng góp, trao đổi của các đồng nghiệp./.
Đồng Thị Toàn- Viện kiểm sát huyện Lạng Giang