Nội dung vụ án: Người khởi kiện anh K trình bày: Ngày 22/12/2003, bà Nguyễn Thị H (mẹ anh K) được UBND huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số Đ 12345 diện tích 1.600m2 đất. Ngày 13/4/2016, bà H đã làm thủ tục tặng cho anh toàn bộ quyền sử dụng diện tích đất nêu trên và Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L chỉnh lý tại trang 4 của GCNQSDĐ đã cấp cho bà H sang tên cho anh vào ngày 05/5/2016.
Ngày 20/01/2017 UBND huyện L có Thông báo số 71/UBND-TNMT “V/v thông báo kết quả thẩm tra trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ” kết luận GCNQSDĐ số Đ 12345 đã cấp là trái pháp luật, không đúng trình tự, thủ tục (viết tắt Thông báo số 71); UBND huyện L sẽ tiến hành thu hồi GCNQSDĐ của anh K.
Anh K khiếu nại không đồng ý với Thông báosố 71. Ngày 06/6/2017 UBND huyện L có Văn bản số 657/UBND-TNMT “V/v trả lời đơn của công dân” với nội dung giữ nguyên Thông báo số 71.
Ngày 29/9/2017 UBND huyện L ban hành Quyết định 715/QĐ-UBND “Về việc thu hồi GCNQSDĐ của hộ bà Nguyễn Thị H, anh Nguyễn Quốc K” (viết tắt Quyết định 715).
Anh K cho rằng việc UBND huyện L thu hồi GCNQSDĐ số Đ 12345 đã xâm phạm quyền lợi hợp pháp của anh. Anh khởi kiện đề nghị Tòa án hủy Quyết định số 715.
- Người bị kiện UBND huyện L trình bày: Vợ chồng cụ Nguyễn Văn D và cụ Đỗ Thị N (là bố mẹ của ông Nguyễn Tiến S, bà Nguyễn Thị H) sử dụng đất tại thôn P, xã M từ năm 1960. Theo bản đồ địa chính xã M đo đạc năm 1992, đất gia đình cụ D sử dụng gồm có thửa số 190 diện tích 1.540m2 và thửa số 126 diện tích 180m2, tờ bản đồ số 25.
Theo Sổ Địa chính, Sổ Mục kê đất đai lập năm 1993 và GCNQSDĐ do UBND huyện L cấp năm 1993 cho hộ cụ D là đất ở và đất nông nghiệp chung trên một giấy chứng nhận có tổng diện tích là 1.003m2 đất, trong đó thửa số 126 là 180m2 đất ở và 03 thửa đất nông nghiệp, không có thửa số 190, diện tích 1.540m2.
Trên thực tế, vợ chồng cụ D sử dụng thửa đất số 190, diện tích 1.540m2 liên tục, ổn định không có tranh chấp từ trước cho đến nay.
Năm 1984 ông S lấy vợ, đến năm 1986 được bố mẹ tách cho một phần đất khoảng 700m2 để ở riêng. Năm 1990 ông S xây dựng công trình chăn nuôi trên phần diện tích đất được cho. Năm 1996, ông S trồng cây ăn quả và năm 2010 xây dựng các công trình phụ trên đất.
Theo Sổ Địa chính, Sổ Mục kê đất đai lập năm 1993 và GCNQSDĐ do UBND huyện L cấp năm 1993 thể hiện: Ông S được cấp GCNQSDĐ ở và đất nông nghiệp chung trên một giấy chứng nhận có tổng diện tích là 3.052m2 đất, trong đó có diện tích 770m2 đất ở thuộc thửa đất số 190, diện tích 1.540m2 và 07 thửa đất nông nghiệp.
Trên thực tế, ông S đã xây dựng một số công trình tại vị trí phía Bắc thửa đất số 190 (nay là thửa số 45, diện tích 1.641m2, tờ bản đồ số 21 đo đạc năm 2003) tiếp giáp đầu hồi nhà ở 5 gian do cụ D và cụ N sử dụng.
Bà H sử dụng đất làm nhà ở tại thôn P xã M trước năm 1990; theo bản đồ địa chính xã M đo đạc năm 1992, đất ở gia đình bà H sử dụng tại thửa số 127, diện tích 295m2, tờ bản đồ số 25.
Theo Sổ Địa chính, Sổ Mục kê đất đai lập năm 1993 và GCNQSDĐ do UBND huyện L cấp năm 1993 cho thấy: Bà H được cấp GCNQSDĐ ở và đất nông nghiệp chung trên một giấy chứng nhận có tổng diện tích là 1.405m2 đất, trong đó có thửa đất số 127, diện tích 295m2 và 04 thửa đất nông nghiệp, không có thửa số 190, diện tích 1.540m2. Bà H sử dụng thửa đất số 127, diện tích 295m2 ổn định, liên tục không có tranh chấp.
Năm 2003 xã M được đo đạc bản đồ địa chính mới phục vụ cho công tác lập hồ sơ địa chính, cấp đổi GCNQSDĐ cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Thửa đất số 190, diện tích 1.540m2 do cụ D và ông S (đã được cấp GCN một phần diện tích 770m2 đất vào năm 1993) sử dụng được đo vẽ thành số thửa mới là số 45, diện tích 1.641m2, tờ bản đồ số 21.
Ngày 22/12/2003, UBND huyện L cấp GCNQSDĐ cho bà H đối với thửa đất 45, diện tích 1.641m2 (trong đó có 300m2 đất ở, 1.341m2 đất vườn).
Ngày 13/4/2016, bà H lập hợp đồng tặng cho QSDĐ và tài sản gắn liền với đất cho anh K đối với thửa đất 45, diện tích 1.641m2 và được UBND xã M chứng thực cùng ngày. Đến ngày 05/5/2016, Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện L đã xác nhận QSDĐ cho anh K đối với thửa đất 45, diện tích 1.641m2 tại trang 4 của GCNQSDĐ đã cấp cho bà Nguyễn Thị H nêu trên.
Tháng 5/2016, ông S mới biết việc UBND huyện L cấp GCNQSDĐ cho bà H vào năm 2003 đối với thửa đất 45, diện tích 1.641m2 đã cấp chồng vào diện tích 770m2 đất ở của ông đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ năm 1993, nên ông gửi đơn đề nghị UBND xã M xem xét, giải quyết.
Ngày 29/9/2016, UBND xã M có Báo cáo số 64/BC-UBND gửi UBND huyện L báo cáo về kết quả kiểm tra nguồn gốc, quá trình cấp GCNQSDĐ của hộ ông S, đã xác định ông S được UBND huyện cấp GCNQSDĐ năm 1993 đối với diện tích 770m2 đất ở thuộc thửa đất số 190, tờ bản đồ số 25; việc cấp GCNQSDĐ cho bà H năm 2003 đối với thửa đất số 45, diện tích 1.641m2, trong đó có chồng vào đất của ông S đã được cấp GCNQSDĐ năm 1993 với diện tích 770m2; đề nghị UBND huyện xem xét thu hồi GCNQSDĐ đã cấp cho bà Nguyễn Thị H.
UBND huyện L giao Phòng Tài nguyên và Môi trường kiểm tra, đề xuất UBND huyện về nội dung báo cáo của UBND xã M, sau đó UBND huyện đã giao Thanh tra huyện thẩm tra trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ cho hộ bà H đối với thửa đất 45, diện tích 1.641m2, tờ bản đồ số 21.
Ngày 10/01/2017, Thanh tra huyện có Báo cáo số 03/BC-TTr về kết quả thẩm tra trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ, đã kết luận và kiến nghị như sau:
+ Việc xét, xác nhận, đề nghị của UBND xã M trình UBND huyện cấp GCNQSDĐ năm 2003 cho hộ bà H đối với thửa đất số 45, diện tích 1.641m2 (trong đó có diện tích 770m2 đất của ông S đã được UBND huyện cấp GCN năm 1993) là không đúng đối tượng, điều kiện cấp GCN đã vi phạm quy định tại điểm 3 Chương 2 và Mục II, Chương 3 của Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục Địa chính Hướng dẫn đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ.
+ Đề nghị UBND huyện thu hồi GCNQSDĐ số Đ 12345 đã cấp cho hộ bà H đối với thửa đất số 45, diện tích 1.641,1m2, tờ bản đồ số 21 tại thôn P, xã M.
Ngày 20/01/2017, UBND huyện có Thông báo số 71 với nội dung: Qua kiểm tra hồ sơ đăng ký, xét cấp GCNQSDĐ sau đo đạc bản đồ năm 2003, cho thấy: Bà H đăng ký, kê khai đơn xin cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 45, diện tích 1.641m2, tờ bản đồ số 21 (là thửa đất số 190, diện tích 1.540m2 do cụ D và cụ N đang sử dụng và ông S được cấp GCN năm 1993 nêu trên, nhưng không có giấy tờ tặng cho, chuyển nhượng của cụ D, cụ N hay ông S cho bà H đối với thửa đất này theo quy định của pháp luật đất đai.
Việc xét, xác nhận, đề nghị của UBND xã M trình UBND huyện cấp GCNSDĐ năm 2003 cho hộ bà Nguyễn Thị H đối với thửa đất số 45, diện tích 1.641m2, trong đó cấp chồng vào diện tích 770m2 đất ở của ông S đã được UBND huyện cấp GCN năm 1993 là không đúng đối tượng và điều kiện cấp GCN đã vi phạm quy định tại điểm 3 Chương 2 và Mục II Chương 3 Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục Địa chính Hướng dẫn đăng ký đất đai, lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSDĐ. Mặc dù bà H đã tặng cho QSDĐ cho ông K nhưng GCNQSDĐ đã cấp thuộc trường hợp thu hồi theo quy định tại khoản 5 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai.
Căn cứ quy định tại điểm b khoản 4 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, Chủ tịch UBND huyện L thông báo cho bà H và anh K biết, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà hộ gia đình không có khiếu nại thì UBND huyện sẽ ra quyết định thu hồi GCNQSDĐ số Đ 12345 cấp ngày 22/12/2003 cho hộ bà Nguyễn Thị H đối với diện tích 1.641m2, thửa đất số 45, tờ bản đồ số 21, tại thôn P, xã M, huyện L.
Ngày 06/6/2017, Chủ tịch UBND huyện L có Công văn số 657/UBND-TNMT về việc trả lời đơn của ông K.
Căn cứ khoản 3 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013, UBND huyện L đã ban hành Quyết định số 715/QĐ-UBND ngày 29/9/2017 về việc thu hồi GCNQSDĐ đối với hộ bà H, anh K. Lý do thu hồi: Việc xét, cấp GCNQSDĐ cho hộ bà H là không đúng đối tượng sử dụng đất. Vì thửa đất nêu trên tại thời điểm năm 2003 cụ D và cụ N đang sử dụng đất, nhưng trong hồ sơ xét, cấp GCNQSDĐ cho hộ bà H không có giấy tờ chuyển QSDĐ giữa cụ D và cụ N với bà H theo quy định của pháp luật và cấp chồng lên thửa đất ở của ông S đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ năm 1993 thuộc thửa đất số 190, diện tích 770m2, tờ bản đồ số 25 đo đạc năm 1992.
Căn cứ thu hồi: Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013; khoản 5 Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai
UBND huyện L không đồng ý với yêu cầu của người khởi kiện.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- UBND xã M; cụ D; cụ N; ông S đều nhất trí với trình bày của người bị kiện.
- Bà H trình bày: Về nguồn gốc đất do bà được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số Đ 12345 nêu trên là do bà được bố mẹ là cụ D và cụ N cho, nhưng không có tài liệu chứng minh. Bà nhất trí với nội dung do anh K trình bày vàđề nghị Tòa án hủy Quyết định số 715 của UBND huyện L nêu trên.
2. Về tài liệu chứng cứ
Các đương sự cung cấp, giao nộp và do Tòa án thu thập bao gồm: Đơn khởi kiện của anh K; Sổ địa chính, Sổ mục kê năm 1993 mang tên cụ D, cụ N; Hồ sơ cấp GCNQSDĐ của cụ D, cụ N; ông S; bà H; anh K; Hồ sơ tài liệu liên quan đến việc ra quyết định thu hồi GCNQSDĐ...
Tòa án đã thực hiện việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại; tiến hành xem xét thẩm định, đo đạc tại chỗ đối với thửa đất.
Với nội dung vụ án nêu trên, theo đồng chí phải giải quyết vụ án như thế nào cho đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Hoàng Đức Trình - Phòng 10