Qua công tác kiểm sát thi hành án dân sự thấy có những việc thi hành án cơ quan thi hành án dân sự đã tiến hành cưỡng chế, kê biên, thẩm định giá, bán đấu giá thành tài sản. Việc cơ quan thi hành án dân sự thanh toán tiền thi hành án cho những người được thi hành án như thế nào còn nhiều quan điểm khác nhau; xin nêu cụ thể một số việc thi hành án có xảy ra trên thực tế để các đồng nghiệp cùng nghiên cứu, trao đổi.
Hồ sơ thi hành án dân sự theo các quyết định rút hồ sơ thi hành án của Cục thi hành án dân sự tỉnh B để tổ chức thi hành đối với Nguyễn Hữu T; Địa chỉ: Thôn N, xã K, huyện H; Cụ thể:
1. Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 83/QĐ-CCTHADS ngày 11/4/2017 của Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự huyện H(Cục thi hành án dân sự tỉnh B đã ra Quyết định về việc rút hồ sơ thi hành án ngày 25/6/2018) cho thi hành đối với Nguyễn Hữu T với các khoản phải thi hành: Buộc Nguyễn Hữu T phải thanh toán trả cho Trịnh Thị T số tiền là 955.550.000 đồng và tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất 10%/năm của số tiền phải thi hành án.
2. Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 13/QĐ-CCTHADS ngày 08/10/2018 của Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự huyện H(Cục thi hành án tỉnh B đã ra Quyết định về việc rút hồ sơ thi hành án ngày 23/11/2018) cho thi hành đối với Nguyễn Hữu T với các khoản phải thi hành: Buộc Nguyễn Hữu T phải thanh toán trả cho bà Trần Thị L số tiền 715.000.000 đồng và tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất 10%/năm tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
3. Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 19/QĐ-CCTHADS ngày 08/10/2018 của Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự huyện H(Cục thi hành án tỉnh B đã ra Quyết định về việc rút hồ sơ thi hành án ngày 23/11/2018) cho thi hành đối với Nguyễn Hữu T với các khoản phải thi hành: Buộc Nguyễn Hữu T phải thanh toán trả cho ông Dương Văn H số tiền 966.000.000 đồng và tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên đã giao quyết định thi hành án cho các đương sự, hết thời gian tự nguyện thi hành án đã không tự nguyện trả nợ. Chấp hành viên đã tổ chức xác minh điều kiện thi hành án xác định có 05 quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất thuộc quyền sở hữu của ông T, vợ chồng ông T và hộ gia đình ông T không thế chấp Ngân hàng.
Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế thi hành án ngày 16/11/2018; đã tổ chức cưỡng chế, kê biên 05 quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất vào các ngày 16 + 17/01/2019 và tiến hành thẩm định giá, có kết quả thẩm định đối với 03 quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; cụ thể:
+ Quyền sử dụng 172 m2 đất tại xã N, huyện H do UBND huyện H cấp cho vợ chồng ông Nguyễn Hữu T. Kết quả thẩm định giá 377.000.000 đồng.
+ Quyền sử dụng đất diện tích 388 m2 và tài sản gắn liền với đất tại thôn N, xã K, huyện H do UBND huyện H cấp cho ông Nguyễn Hữu T. Kết quả thẩm định giá 941.000.000 đồng.
+ Quyền sử dụng 686 m2 đất và tài sản gắn liền với đất tại xã T , huyện L. do UBND huyện L cấp cho hộ ông Nguyễn Hữu T. Kết quả thẩm định giá 871.000.000 đồng.
Chấp hành viên ra thông báo về quyền ưu tiên mua phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản thuộc sở hữu chung đối với quyền sử dụng 172 m2 đất tại xã N, huyện H và quyền sử dụng 686 m2 đất và tài sản gắn liền với đất tại xã T, huyện L cho vợ ông T và các thành viên trong hộ gia đình ông T theo đúng quy định tại Điều 24 Nghị định số 62/NĐ - CP ngày 18/7/2015.
Vợ ông Nguyễn Hữu T có đơn đề nghị mua phần tài sản của ông Nguyễn T đối với quyền sử dụng 172 m2 và đã nộp đủ số tiền 188.500.000 đồng; Chấp hành viên đã tiến hành giao quyền sử dụng 172 m2 cho vợ ông Nguyễn Hữu T và đã lập bảng phân phối tiền bán tài sản thi hành án và đề nghị Lãnh đạo Cục thi hành án dân sự tỉnh B thanh toán trả cho bà Trịnh Thị T số tiền là 142.000.000 đồng (đã xử lý tiền chi phí thi hành án, tiền chi phí nộp cho nhà nước).
Sau khi Cục thi hành án dân sự tỉnh B thanh toán trả cho bà Trịnh Thị T số tiền là 142.000.000 đồng có nhiều quan điểm khác nhau như sau:
Quan điểm thứ nhất:
Việc Cục thi hành án dân sự tỉnh B thanh toán trả cho bà Trịnh Thị T số tiền là 142.000.000 đồng đã đảm bảo theo quy định Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 vì ngày 16/11/2018 Cục thi hành án dân sự tỉnh B ra quyết định cưỡng chế, kê biên 05 quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất thì tại thời điểm này Cục thi hành án dân sự tỉnh B chưa ra Quyết định về việc rút hồ sơ thi hành án để tổ chức thi hành đối với Nguyễn Hữu T theo đơn yêu cầu thi hành án của bà Trần Thị L và ông Dương Văn H.
Quan điểm thứ hai:
Việc Cục thi hành án dân sự tỉnh B thanh toán trả cho bà Trịnh Thị T số tiền là 142.000.000 đồng là đã vi phạm khoản 2 Điều 47 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; khoản 1 Điều 49 Nghị định số 62/NĐ - CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự.
Khoản 2 Điều 47 Luật thi hành án dân sự quy định:
“2.Trường hợp có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán tiền thi hành án được thực hiện như sau:
a) Việc thanh toán được thực hiện theo thứ tự quy định tại khoản 1 Điều này; trường hợp trong cùng một hàng ưu tiên có nhiều người được thi hành án thì việc thanh toán được thực hiện theo tỷ lệ số tiền mà họ được thi hành án.
b) Số tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế thi hành án được thanh toán cho những người được thi hành án tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế đó....”
Khoản 1 Điều 49 Nghị định số 62/NĐ - CP ngày 18/7/2015 quy định:
“ 1. Trường hợp thanh toán tiền thi hành án theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 47 Luật thi hành án dân sự thì Chấp hành viên xác định số tiền được thanh toán của những người được thi hành án đã yêu cầu thi hành án tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế.”
Bởi vì: Ngày 16/11/2018 Cục thi hành án dân sự tỉnh B ra quyết định cưỡng chế, kê biên 05 quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất thì tại thời điểm này Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự huyện H đã ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 13 + 19/QĐ-CCTHADS cùng ngày 08/10/2018 cho thi hành đối với Nguyễn Hữu T theo đơn yêu cầu thi hành án của bà Trần Thị L và ông Dương Văn H. Như vậy để bảo đảm quyền lợi của các đương sự là bà Trần Thị L và ông Dương Văn H là những người được thi hành án tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế, kê biên thì Chấp hành viên phải chi trả tiền cả cho bà Trịnh Thị T, bà Trần Thị L và ông Dương Văn H theo tỷ lệ số tiền mà họ được thi hành án mới đảm bảo quy định.
Quan điểm của cá nhân tôi đồng tình với quan điểm thứ hai; Rất mong nhận được sự quan tâm của các đồng nghiệp trong ngành về công tác kiểm sát thi hành án dân sự để cùng trao đổi, chia sẻ./.
Nguyễn Thị Thủy- Phòng 11