Qua công tác kiểm sát thi hành án dân sự thấy có những việc sau khi cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án, do người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành; cơ quan thi hành án dân sự tiến hành xác minh điều kiện thi hành án xác định quyền sử dụng đất thuộc quyền sở hữu của cá nhân, của vợ chồng hay hộ gia đình của người phải thi hành án để ra quyết định cưỡng chế, kê biên để xử lý tài sản . Việc cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định cưỡng chế, kê biên quyền sử dụng đất như thế nào còn nhiều quan điểm khác nhau; xin nêu cụ thể một việc thi hành án có xảy ra trên thực tế để các đồng nghiệp cùng nghiên cứu, trao đổi.
Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 16/QĐ - CCTHADS, ngày 15/11/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện H cho thi hành đối với Trần Mạnh A - sinh năm 1959 và Nguyễn Thị B - sinh năm 1965; đều trú tại Khu 4, thị trấn T, huyện H. Các khoản phải thi hành: Ông A, bà B có nghĩa vụ liên đới thanh toán trả chị Vũ Thị C số tiền 219.585.000 đồng + khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất là 10%/1 năm.
Quá trình tổ chức thi hành án do ông A, bà B có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành; Chấp hành viên tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của ông A, bà B tại UBND thị trấn T xác định hiện ông A đang quản lý sử dụng thửa đất số 130, tờ bản đồ số 22, diện tích 111m2 tại thị trấn T, huyện H và đã được Chủ tịch UBND huyện H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2001; đồng thời đã xác định rõ tại thời điểm ông A được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên hộ gia đình ông A có 04 nhân khẩu gồm ông A, bà B và các con: Trần Thị C - sinh năm 1987, Trần Kim D - sinh năm 1991.
Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện H có công văn số 969/CV - CNVPĐK ngày 04/12/2017 xác nhận: Ông Trần Mạnh A đã được Chủ tịch UBND huyện H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành 868813 ngày 26/12/2001 đối với thửa đất số 130, tờ bản đồ số 22, diện tích 111m2 tại thị trấn T, huyện H (kèm theo bản phô tô giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành 868813 do Chủ tịch UBND huyện H cấp ngày 26/12/2001 cho ông Trần Mạnh A; đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất ngày 11/8/2001 có chữ ký của ông A và bà Nguyễn Thị B). Sau đó Chấp hành viên không tiến hành xác minh để xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên thuộc quyền sở hữu riêng của ông A; của vợ chồng ông A hay hộ gia đình ông A.
Ngày 09/4/2018 Chấp hành viên đã ban hành quyết định số 10/QĐ - CCTHADS về việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của ông Trần Mạnh A và bà Nguyễn Thị B đối với quyền sử dụng đất nêu trên và tài sản gắn liền trên đất mang tên ông Trần Mạnh A (quyết định căn cứ Khoản 3 Điều 71 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Sau khi Chấp hành viên đã ban hành quyết định cưỡng chế kê biên nêu trên có nhiều quan điểm khác nhau như sau:
Quan điểm thứ nhất:
Việc Chấp hành viên đã ban hành quyết định cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất mang tên ông Trần Mạnh A xác định là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của ông Trần Mạnh A và bà Nguyễn Thị B đảm bảo theo quy định tại Khoản 3 Điều 71 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Quan điểm thứ hai:
Việc Chấp hành viên đã ban hành quyết định cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất mang tên ông Trần Mạnh A xác định là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của ông Trần Mạnh A và bà Nguyễn Thị B là chưa đảm bảo theo quy định của pháp luật bởi:
Với tài liệu có trong hồ sơ thi hành án chưa có cơ sở để xác định quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất mang tên ông Trần Mạnh A là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của ông Trần Mạnh A và bà Nguyễn Thị B để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Khoản 3 Điều 71 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 vì chưa tiến hành xác minh cụ thể tại UBND thị trấn T, huyện H và Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện H để xác định rõ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên thuộc quyền sở hữu riêng của ông A; của vợ chồng ông A hay hộ gia đình ông A?
Trường hợp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên thuộc quyền sở hữu hộ gia đình ông A thì Chấp hành viên phải ra thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên trong hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu biết và tiến hành xử lý tài sản theo quy định tại Điều 74 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 và Điểm c Khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/NĐ - CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ; Đồng thời Chấp hành viên cần tiến hành xác minh cụ thể đối với từng tài sản gắn liền trên diện tích đất được hình thành vào thời gian nào, do công sức của ai đóng góp để xử lý theo quy định tại Điều 113 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Quan điểm của cá nhân tôi đồng tình với quan điểm thứ hai; Rất mong nhận được sự quan tâm của các đồng nghiệp trong ngành về công tác kiểm sát thi hành án dân sự để cùng trao đổi, chia sẻ ./.
Nguyễn Thị Thủy- Phòng 11