ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Thứ tư, 25/12/2024 -12:40 PM

Cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định về việc đình chỉ 1 phần thi hành án đã đúng quy định pháp luật chưa?

 | 

Qua công tác kiểm sát thi hành án dân sự thấy có những việc sau khi cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án, do người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành; cơ quan thi hành án dân sự đã tiến hành tổ chức cưỡng chế, kê biên để xử lý tài sản thì các đương sự đã thỏa thuận được với nhau về phương án trả nợ và đã trả được cho nhau tiền nợ gốc, một phần tiền lãi trong hạn nên người được thi hành án đã có đơn đề nghị đình chỉ thi hành án một phần về số tiền lãi trong hạn và quá hạn cho người phải thi hành án. Việc cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định đình chỉ một phần đối với số tiền như thế nào còn nhiều quan điểm khác nhau; xin nêu cụ thể một việc thi hành án có xảy ra trên thực tế để các đồng nghiệp cùng nghiên cứu, trao đổi.

Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 03/QĐ - CTHA ngày 26/12/2012 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T cho thi hành án đối với ông Nguyễn Văn A vàbà Nguyễn Thị B. Các khoản phải thi hành: ông A, bà Bphải trả nợ Ngân hàng TMCP  tổng số tiền phải thi hành là: 2.190.000.000đ và lãi suất chậm thi hành (Chi cục thi hành án dân sự tổ chức thi hành theo đơn yêu cầu thi hành án của ông Dương Văn H đại diện theo pháp luật của Ngân hàng TMCP và Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 01/2012/QĐKDTM - ST ngày 02/5/2012 của TAND huyện B).

Do ông Nguyễn Văn A vàbà Nguyễn Thị B không tự nguyện thi hành án nên Chấp hành viên A đã tiến hành tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản của ông A, bà B đã thế chấp với Ngân hàng theo quy định pháp luật và đã thẩm định giá, trung tâm đấu giá tài sản đang tiến hành tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án theo quy định pháp luật.

Ngày 10/8/2018 Ngân hàng và ông A, bà B đã làm việc để thỏa thuận với nhau về phương thức trả nợ cho ngân hàng theo cơ chế xử lý nợ của Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội và cơ chế miễn, giảm lãi xuất tiền vay nên hai bên đã thống nhất thỏa thuận về việc trả nợ, sau khi thỏa thuận với Ngân hàng ngày 26/9/2019 ôngA, bà Bđã thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng với tổng số tiền là 1.900.000.000đ (gồm toàn bộ nợ gốc và 1 phần nợ lãi); Cùng ngày ông Dương Văn H đại diện theo pháp luật của Ngân hàng TMCP đã có đơn đề nghị đình chỉ thi hành án đối với số tiền ôngA, bà Bcòn phải thi hành án là 290.000.000đvà lãi suất chậm thi hành; kèm theo đơn làchứng từ đã nộp 1.900.000.000đcủa ông A, bà B và sổ phụ hoạt động khế ước của Ngân hàng  thể hiện số tiền còn nợ của ông A, bà B tính đến ngày 26/9/2018 là: Nợ gốc 1.560.000.000đ; nợ lãi và lãi quá hạn là 1.307.695.000đ cho Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

Chấp hành viên đã lập biên bản với ông  Dương Văn H về việc người được thi hành án yêu cầu đình chỉ thi hành án với nội dung: Ông H đề nghị đình chỉ số tiền đối với ông A, bà B còn phải thi hành án là 290.000.000đ theo quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 03/QĐ - CTHA ngày 26/12/2012 và tiền lãi quá hạn của số tiền nợ chưa thanh toán tính từ ngày ra quyết định thi hành án cho đến ngày 26/9/2018.

 Ngày 27/9/2018 Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự huyện T căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 ban hành Quyết định về việc đình chỉ thi hành án số 120/QĐ-CCTHADS đình chỉ thi hành án với ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị B; các khoản đình chỉ thi hành: Trả nợ cho Ngân hàng TMCP số tiền là 290.000.000đvà lãi suất chậm thi hành án.

      Sau khi Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự huyện T ban hành quyết định về việc đình chỉ thi hành án nêu trên có nhiều quan điểm khác nhau như sau:

Quan điểm thứ nhất:

Việc Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự huyện T căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 ban hành Quyết định về việc đình chỉ thi hành án số 120/QĐ-CCTHADS, ngày 27/9/2018 đình chỉ thi hành án với ông Nguyễn Văn A và bà Nguyễn Thị B; các khoản đình chỉ thi hành: Trả nợ cho Ngân hàng TMCP số tiền là 290.000.000đvà lãi suất chậm thi hành ánđã thực hiện đúng theo quy định pháp luật vì số tiền đình chỉ thi hành án đã phù hợp với số tiền tại quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 03/QĐ - CTHA ngày 26/12/2012.

Quan điểm thứ hai:

 Quyết định về việc đình chỉ thi hành án số 120/QĐ-CCTHADS, ngày 27/9/2018 của Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự huyện T chưa thể hiện cụ thể về số tiền đình chỉ thi hành án đối với tiền lãi suất chậm thi hành án cụ thể là bao nhiên và chưa thu thập tài liệu để xác định rõ số tiền ông H đề nghị đình chỉ thi hành án đã phù hợp, đảm bảo theo quy định tại Khoản 3 Điều 5 Nghị định số 62/NĐ - CP ngày 18/7/2015 và Điểm c Khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 chưa?

Trong trường hợp này khi tiêp nhận đơn đề nghị đình chỉ và tiến hành làm việc với ông Dương Văn H đại diện theo pháp luật của Ngân hàng TMCP, Chấp hành viên cần yêu cầu Ngân hàng cung cấp cụ thể số tiền lãi quá hạn của số tiền nợ chưa thanh toán tính từ ngày ra quyết định thi hành án cho đến ngày 26/9/2018 của ông A, bà B là bao nhiêu tiền; đồng thời chưa thu thập tài liệu để xác định rõ số tiền ông Dương Văn H đề nghị đình chỉ thi hành án có phù hợp, đúng quy định không như: Yêu cầu Ngân hàng cung cấp biên bản thỏa thuận giữa Ngân hàng và ông A, bà B; quyết định hoặc thông báo về việc miễn, giảm lãi của Ngân hàng cho ông A, bà B (căn cứ để Ngân hàng đề nghị đình chỉ thi hành án); sổ phụ hoạt động khế ước của Ngân hàng thể hiện số tiền còn dư nợ của ông A, bà B tính đến ngày 27/9/2018 là bao nhiêu để xác định được số tiền ông A, bà B còn phải trả nợ cho Ngân hàng (là số tiền đình chỉ thi hành án gồm 290.000.000đ + tiền lãi suất chậm thi hành án). Do đó dẫn đến việc Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự huyện T đã ra Quyết định về việc đình chỉ thi hành án số 120/QĐ-CCTHADS, ngày 27/9/2018 chưa thể hiện cụ thể số tiền đình chỉ thi hành án đối với khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ chưa thanh toán tính từ ngày ra quyết định thi hành án cho đến ngày 26/9/2018.

Quan điểm của cá nhân tôi đồng tình với quan điểm thứ hai; Rất mong nhận được sự quan tâm của các đồng nghiệp trong ngành về công tác kiểm sát thi hành án dân sự  để cùng trao đổi, chia sẻ ./.

Nguyễn Thị Thủy - Phòng 11

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:31,847,277
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:18.118.24.176

    Thư viện ảnh