Năm 1982, hộ gia đình vợ chồng ông Nguyễn Văn C, bà Nguyễn Thị T được nhà nước cấp cho một thửa đất diện tích 232m2, thuộc địa phận thôn V, xã B, huyện V, tỉnh G để giãn dân vì đông con. Sau đó vợ chồng ông C, bà T cho vợ chồng người con trai trưởng là Nguyễn Văn K ra làm nhà ở riêng trên thửa đất này. Đến năm 1995, ông C và bà T cưới vợ cho người con trai út là Nguyễn Văn D và bảo vợ chồng anh K vào ở nhà đất của ông bà, để ông C, bà T và vợ chồng anh D ra ở trên thửa đất trên. Năm 1997 ông C bị ốm nên phải đưa vào ở với vợ chồng anh K để tiện việc chăm sóc, bà T lúc ở với anh D, lúc ở với vợ chồng anh K. Năm 2001, ông C mất. Thửa đất 232m2 được cấp GCNQSDĐ số 645/1998/QĐ ngày 14/12/1998 mang tên hộ anh D. Năm 2011, bà T khởi kiện cho rằng: thửa đất trên là của ông bà, chưa cho vợ chồng anh D. Năm 1998, trong lúc ông C ốm đau, bà phải đi bệnh viện chăm sóc, anh D đã tự ý kê khai để được cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất trên. Năm 2003, bà T muốn về ở với vợ chồng anh D nhưng vợ chồng anh D không đồng ý. Đến năm 2010 anh D phá nhà cũ xây nhà mới, bà T mới biết anh D được cấp GCNQSDĐ. Việc UBND huyện cấp GCNQSDĐ cho anh D là không đúng, bà T yêu cầu tòa án hủy quyết định cấp GCNQSDĐ cho anh D, buộc vợ chồng anh D phải trả bà ½ diện tích thửa đất 232 m2 để bà có chỗ ở và bán hàng không phụ thuộc con cháu (bà T hiện đang ở với con anh K).
Anh D trình bày: Nguồn gốc đất trên do anh đang sử dụng là của nhà nước cấp cho bố mẹ anh là ông C, bà T. Năm 1995, ông C và bà T tuyên bố trước các con là cho vợ chồng anh đất này. Năm 1998, ông C và bà T ở với vợ chồng anh, vợ chồng anh kê khai để được cấp GCNQSDĐ, ông C, bà T đều biết và đồng ý. Năm 2010, anh D dỡ bỏ nhà cũ để xây nhà 3 tầng trên một nửa thửa đất. Bà T biết còn đến thắp hương để động thổ. Anh không đồng ý với yêu cầu đòi đất của bà T.
Vợ chồng anh K và 4 người con của vợ chồng ông C, bà T trình bày ông C, bà T chưa cho vợ chồng anh D đất và không yêu cầu giải quyết quyền lợi gì trong vụ án này.
Đại diện UBND huyện (Trưởng Phòng tài nguyên môi trường) trình bày: Năm 1998 việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho hộ anh D là đúng trình tự, thủ tục.
Hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ của anh D không có giấy tờ tặng cho đất.
Sổ hộ khẩu gia đình bà T năm 1998 có: Vợ chồng ông C (chủ hộ), bà T, vợ chồng anh D, chị B và cháu Q (con anh D, chị B).
Trong quá trình giải quyết vụ việc trên, có ba quan điểm giải quyết như sau:
Ý kiến thứ nhất: Việc kiện đòi quyền sử dụng đất của bà T là có căn cứ vì nguồn gốc thửa đất là cấp cho vợ chồng ông C, bà T. Ông C, bà T chưa cho vợ chồng anh D đất. Trong hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ do anh D tự kê khai không có giấy tờ tặng cho quyền sử dụng đất. Việc UBND huyện cấp GCNQSDĐ cho anh D là không đúng, căn cứ Điều 32a Bộ luật TTDS năm 2005 và các Điều 169, 255, 256 BLDS năm 2005: hủy quyết định cấp GCNQSDĐ cho hộ anh D. Buộc vợ chồng anh D phải trả lại bà T một nửa thửa đất trên.
Ý kiến thứ hai: Việc kiện đòi quyền sử dụng đất của bà T là không có căn cứ vì: nguồn gốc đất là cấp cho hộ gia đình để giãn dân. Anh D nói ông C, bà T đã tuyên bố cho vợ chồng anh D đất và anh đã được cấp GCNQSDĐ từ năm 1998, ở ổn định đến nay không có tranh chấp gì. Như vậy bà T không có quyền khởi kiện đòi lại một nửa thửa đất. Căn cứ các Điều 169, 688 BLDS năm 2005, bác yêu cầu khởi kiện của bà T đối với vợ chồng anh D.
Ý kiến thứ ba: Năm 1998 hộ khẩu gia đình anh D có 5 người gồm ông C, bà T, anh D, chị B, cháu Q. Thửa đất trên được cấp cho hộ gia đình anh D, như vậy bà T có một phần trong thửa đất đó. Căn cứ các Điều 108, 255, 256 BLDS năm 2005, chấp nhận một phần yêu cầu bà T, buộc vợ chồng anh D trả bà 1/5 thửa đất trên bằng 46,4m2.
Tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất. Do còn có những ý kiến khác nhau trong việc giải quyết vụ án, xin nêu lên để trao đổi cùng bạn đọc cho ý kiến./.
Nguyễn Thế Lượng