Nội dung vụ việc: Nguyễn Văn A kinh doanh mua bán, sửa chữa điện thoại. Ngày 9/9/2024, A đặt mua 02 chiếc điện thoại Iphone 15 cũ đã qua sử dụng của cửa hàng anh Nguyễn Văn B mục đích về bán lại kiếm lời. Sau đó, anh B gửi 02 chiếc điện thoại Iphone 15 cho Nguyễn Văn A qua Công ty giao hàng, hai bên thoả thuận khi nào A kiểm tra nhận hàng thì sẽ chuyển khoản trả tiền cho B qua tài khoản ngân hàng. Đến ngày 13/9/2024, anh Nguyễn Văn C là nhân viên của Công ty giao hàng được phân công giao đơn hàng là 02 chiếc điện thoại Iphone 15 cho Nguyễn Văn A. Khi anh C đến địa chỉ cửa hàng điện thoại của A thì A đang sửa điện thoại nên bảo anh C để lại đơn hàng để kiểm tra và chuyển tiền sau, lúc này A chưa nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại. Sau khi anh C để lại đơn hàng, thấy sơ hở A mới nảy sinh ý định lấy điện thoại bên trong đơn hàng đã đặt. A đã dùng dao tem mở nhưng không làm rách tem niêm phong của 2 đơn hàng lấy 02 điện thoại iphone 15 bên trong đơn hàng rồi lấy 02 vỏ điện thoại hỏng để lại trong đơn hàng sau đó dùng băng dính dán lại không để C biết đơn hàng đã bị đánh tráo. Khi anh C quay lại, A bảo chưa đủ tiền. Ngày 14/9/2024, anh C tiếp tục mang đơn hàng giao lại cho A thì A đề nghị kiểm tra đơn hàng và không nhận đơn hàng với lý do không đúng là điện thoại đặt mua. Kết quả định giá 02 chiếc điện thoại Iphone 15 trị giá 22.000.000 đồng.
Đối với vụ việc trên có 3 quan điểm về tội danh của A:
Quan điểm thứ nhất: hành vi của Nguyễn Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Vì sau khi anh C để lại đơn hàng rời đi thì A thực hiện việc đánh tráo điện thoại nên Nguyễn Văn A đã lét lút với anh C là người giao hàng để lấy trộm 2 chiếc điện thoại trong đơn hàng. Hành vi của Nguyễn Văn A phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Quan điểm thứ hai: hành vi của Nguyễn Văn A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Vì Nguyễn Văn A lấy 2 điện thoại iphone 15 bên trong đơn hàng rồi lấy 2 vỏ điện thoại hỏng để vào sau đó dùng băng dính dán lại không để nhân viên giao hàng phát hiện đơn hàng đã bị đánh tráo nên A là dùng thủ đoạn gian dối đánh tráo điện thoại trong đơn hàng đã đặt để chiếm đoạt 2 chiếc điện thoại. Thực tế Nguyễn Văn A chưa nhận được đơn hàng hợp pháp vì chưa kiểm tra thanh toán tiền, anh C nhân viên giao hàng không biết đơn hàng bên trong là điện thoại có giá trị lớn mới tạm thời để đơn hàng ở cửa hàng của A để A kiểm tra chuyển tiền sau. Hành vi của Nguyễn Văn A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.
Quan điểm thứ ba: hành vi của Nguyễn Văn A phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Vì Nguyễn Văn A nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản sau khi nhân viên giao hàng để lại đơn hàng tại cửa hàng cho A để chờ A chuyển tiền. A bảo nhân viên để lại đơn hàng do khi viên giao hàng đến A đang sửa điện thoại lúc này A chưa nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại. Sau khi anh C nhân viên giao hàng để lại đơn hàng (mặc dù anh C giao hàng không đúng quy trình nhưng anh C đã đồng ý giao tài sản để A kiểm tra và rời đi nên A đã được giao quản lý tài sản hợp pháp), A đã dùng thủ đoạn gian dối đánh tráo điện thoại trong đơn hàng đã đặt để chiếm đoạt 2 chiếc điện thoại này sau khi được quản lý tài sản hợp pháp. Hành vi của Nguyễn Văn A phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.
Bản thân tôi đồng ý với quan điểm thứ ba, rất mong nhận được trao đổi, phản hồi của các đồng nghiệp.
Nguyễn Thị Huệ- VKSND huyện Tân Yên