Ngày 05/3/2024, Nguyễn Văn A (thời điểm này là đang quân nhân tại ngũ công tác tại Sư đoàn E, Quân khu 1, Bộ Quốc phòng) đến cửa hàng thuê xe tự lái của anh Hoàng Văn B ở huyện X, tỉnh Y làm hợp đồng thuê 01 chiếc xe ô tô trị giá 400.000.000 đồng trong thời hạn 10 ngày. Sau khi được anh B giao xe, A sử dụng làm phương tiện đi lại. Một tuần sau, A tự ý mang xe đi cầm cố cho người khác vay 200.000.000 đồng sử dụng chi tiêu cá nhân hết dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Do vi phạm kỷ luật quân đội nên ngày 15/3/2024, Quân khu 1 đã quyết định cho A xuất ngũ.
Ngày 20/3/2024, anh Hoàng Văn B có đơn trình báo Cơ quan điều tra Công an huyện X. Sau khi xác minh đến ngày 15/5/2024, Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn A về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 3 Điều 175 Bộ luật hình sự.
Quá trình giải quyết vụ án nêu trên có hai quan điểm về xác định thẩm quyền điều tra vụ án nêu trên, cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất: Nguyễn Văn A thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 05/3/2024, thời điểm này A đang là quân nhân tại ngũ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan tiến hành tố tụng trong Quân đội theo quy định tại khoản 2 Điều 163 và điểm a khoản 1 Điều 272 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Quan điểm thứ hai: Hành vi phạm tội của Nguyễn Văn A được phát hiện vào ngày 20/3/2024, thời điểm này A đã xuất ngũ. Hành vi của A không liên quan đến bí mật quân sự và không gây thiệt hại cho Quân đội. Do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan tiến hành tố tụng huyện X theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 3 Thông tư số 03 ngày 28/12/2023 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự.
Tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai./.
Lê Đình Duy- VKSND thành phố Bắc Giang