.

Thứ năm, 25/04/2024 -04:39 AM

Hoàn thiện quy định về miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

 | 

Ngoài các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nói chung (quy định tại Điều 16, Điều 29 và ở một số Điều luật về các tội phạm cụ thể của BLHS), người dưới 18 tuổi phạm tội còn có thể được miễn TNHS khi thuộc một số trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS.

Khoản 2 Điều 91 BLHS là căn cứ miễn TNHS áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, theo đó điều kiện để người dưới 18 tuổi phạm tội có thể được miễn TNHS bao gồm:

Thứ nhất, người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a, b, c khoản 2 Điều 91 BLHS.

Thứ hai, người dưới 18 tuổi phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nghĩa là phải có từ 02 tình tiết giảm nhẹ TNHS (quy định tại Điều 51 BLHS) trở lên.

Thứ ba, người dưới 18 tuổi phạm tội tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả. Việc cha, mẹ của người dưới 18 tuổi phạm tội tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả do hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi gây ra hay việc người dưới 18 tuổi phạm tội không có điều kiện để tiến hành khách phục hậu quả  nhưng đã tích cực tác động, đề nghị cha, mẹ hoặc người khác khắc phục hậu quả.

Thứ tư, không thuộc trường hợp được miễn TNHS theo Điều 29 BLHS. Vì nếu người dưới 18 tuổi phạm tội đồng thời thuộc trường hợp miễn TNHS theo Điều 29 và khoản 2 Điều 91 thì sẽ áp dụng Điều 29.

Nghiên cứu quy định về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có thể thấy chế định miễn TNHS áp dụng riêng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có thể thấy một số bất cập như sau:

Thứ nhất, theo quy định tại khoản 2, 4 Điều 91, Điều 92 BLHS, khoản 2 Điều 15 Thông tư liên tịch số số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, việc áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục có quan hệ chặt chẽ đối với việc miễn TNHS cho người dưới 18 tuổi phạm tội vì các biện pháp này được áp dụng đồng thời với việc miễn TNHS cho người dưới 18 tuổi phạm tội theo các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS, nếu không đủ điều kiện áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục cũng sẽ không đủ điều kiện để miễn TNHS. Điều đó có nghĩa, các biện pháp giám sát, giáo dục này là điều kiện đủ để áp dụng miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nếu các biện pháp giám sát giáo dục không thực hiện được hoặc thực hiện không thành công thì cũng không có đủ điều kiện để miễn TNHS cho người dưới 18 tuổi theo khoản 2 Điều 91 BLHS.

Tuy nhiên, cách quy định tại khoản Điều 91 BLHS hiện đang không thể hiện rõ nội dung này và đang dẫn đến những cách hiểu khác nhau về trình tự áp dụng chế định này. Trên thực tế, quy định này có thể dẫn đến cách hiểu như sau: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cân nhắc điều kiện để miễn TNHS đối với người phạm tội dưới 18 tuổi -> Nếu đủ điều kiện thì miễn TNHS -> Sau khi miễn TNHS thì áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục.

Thứ hai, các trường hợp miễn TNHS đối với người phạm tội dưới 18 tuổi bao gồm hai nhóm là các trường hợp miễn TNHS áp dụng chung đối với mọi người phạm tội (các Điều 17, 29, 110, 247, 364, 365, 390 BLHS) và các trường hợp miễn TNHS áp dụng riêng đối với người phạm tội dưới 18 tuổi (khoản 2 Điều 91 BLHS). Tuy nhiên, quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS mới chỉ loại trừ các trường hợp miễn TNHS theo Điều 29 bằng cụm từ “nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này”, không nhắc đến các trường hợp miễn TNHS quy định tại các Điều 16, 110, 247, 364, 365, 390. Vậy thì vấn đề đặt ra là khi có đồng thời các điều kiện miễn TNHS quy định tại các Điều này và các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 91 thì ưu tiên áp dụng quy định nào?

Để chế định miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo khoản 2 Điều 91 BLHS được áp dụng thống nhất, hiệu quả, theo quan điểm của tôi, cần sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 91 BLHS ở 2 vấn đề: (1) sửa đổi theo hướng loại trừ thêm trường hợp miễn TNHS đương nhiên quy định tại Điều 16 (miễn TNHS do tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội) và Điều 110 (miễn TNHS cho người phạm tội gián điệp). Còn nếu xảy ra đồng thời các trường hợp đủ điều kiện miễn TNHS khác quy định tại Điều 247, 364, 365, 390 và khoản 2 Điều 91 thì sẽ áp dụng khoản 2 Điều 91; (2) sửa đổi theo hướng bổ sung thêm một điều kiện để được miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để làm rõ hơn mối quan hệ giữa việc miễn TNHS theo khoản 2 Điều 91 với việc áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục./.

Hoàng Thị Quyên- Viện KSND huyện Sơn Động

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:27,753,621
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.145.166.7

    Thư viện ảnh