.

Thứ ba, 23/04/2024 -16:50 PM

Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm bản án sơ thẩm vì Tòa án giải quyết phân chia cả đất hành lang giao thông cho đương sự

 | 

Thực hiện chức năng nhiệm vụ kiểm sát việc Tòa án nhân dân huyện H giải quyết vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình giữa chị Nguyễn Thị  N và anh Tạ Văn P, VKSND tỉnh B thấy như sau:

Chị N và anh P kết hôn với nhau năm 1997, có đăng ký kết tại UBND xã H, huyện H. Sau quá trình chung sống đến giữa năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân từ đó đến nay. Chị N khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh P. Anh P đồng ý ly hôn với chị N.

Chị N và anh P đều thừa nhận, trong quá trình chung sống chị N và anh P có tài sản chung khoảng 400m2 đất và tài sản trên đất là ngôi nhà 03 tầng ở thôn V, xã H, huyện H. Diện tích đất này UBND huyện H đã có thông báo yêu cầu nộp tiền chuyển mục đích sử dụng (140.000.000đ) để lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), nhưng do anh chị chưa nộp tiền nên chưa được lấy GCNQSDĐ. Chị N đề nghị Tòa án giải quyết phân chia tài sản chung; giao cho anh P nhà đất, anh P trích trả chị bằng tiền. Anh P đề nghị Tòa án giải quyết phân chia tài sản cho anh và chị N theo đúng quy định của pháp luật.

Tòa án nhân dân huyện H đã xử cho chị N được ly hôn anh P. Xác định quyền sử dụng 360,2m2 đất và tài sản gắn liền là nhà 3 tầng trị giá 923.000.000đ là tài sản chung của anh P và chị N, giao cho anh P sở hữu, sử dụng. Anh P phải trích chia tài sản chung cho chị N số tiền 461.500.000đ. Chị N phải chịu 300.000đ án phí ly hôn. Anh P và chị N mỗi người phải chịu 22.460.000đ án phí dân sự sơ thẩm đối với số tài sản được chia.

Xem xét việc giải quyết vụ án của Tòa án thấy như sau:

Chị N và anh P đều khai anh chị có tài sản là quyền sử dụng đất ở có tổng diện tích khoảng 400m2, chưa được nhận Giấy CNQSDĐ do chưa nộp tiền chuyển mục đích sử dụng (140.000.000đ). Tại biên bản định giá thể hiện Hội đồng định giá đã định giá tài sản của chị N và anh P có diện tích đất 278,7m2; định giá 1.800.000đ/m2. Nhưng theo sơ đồ đo đạc do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện H đo vẽ ngày 26/12/2019 lại thể hiện đất có tổng diện tích 360,2m2. Giữa lời khai đương sự với tài liệu định giá, đo đạc nêu trên có sự mâu thuẫn nhau về diện tích đất. Nhưng khi giải quyết vụ án, Tòa án không thu thập hồ sơ cấp GCNQSD đất này cho chị N, anh P tại cơ quan có thẩm quyền để làm căn cứ giải quyết vụ án.

Sau khi Tòa án xét xử sơ thẩm vụ án, Viện kiểm sát đã tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ. Theo thông báo số 265/TB-UBND ngày 5/6/2019 của UBND huyện H; biên bản xác minh tại UBND xã H, huyện H và trích đo thửa đất mà anh P và chị N yêu cầu giải quyết phân chia đã thể hiện: Ngày 31/3/2013 UBND huyện H đã cấp GCNQSD đất diện tích 278,7m2 cho anh P, yêu cầu anh P hoàn thành nghĩa vụ tài chính để được nhận GCNQSDĐ. Nhưng đến nay anh P chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính nên chưa được nhận GCNQSDĐ. Việc Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện H đo đạc hiện trạng thửa đất xác định thửa đất có diện tích 360,2m2 là do đo vẽ gồm cả 81,5m2 đất hành lang giao thông. 

Việc Tòa án xác định chị N và anh P có tài sản chung là thửa đất có diện tích 360,2m2  x 1.800.000đ = 638.360.000đ (gồm cả 81,5m2 đất hành lang giao thông và đất chưa nộp tiền chuyển mục đích sử dụng đất) và giải quyết phân chia cho anh P được sử dụng diện tích đất này, trích trả cho chị N số tiền bằng ½ giá trị đất; buộc chị N và anh P phải chịu số tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với cả giá trị diện tích đất hành lang giao thông là không đúng quy định của pháp luật, không đảm bảo quyền lợi cho chị N, anh P.

Viện trưởng VKSND tỉnh B đã ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm đối với một phần Bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện H, đề nghị Toà án nhân dân tỉnh B giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, xử sửa phần giải quyết về tài sản của Bản án sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật./.

Nguyễn Thị Tuyết- Phòng 9, VKSND tỉnh Bắc Giang

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:27,743,583
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.143.244.83

    Thư viện ảnh