ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Thứ sáu, 22/11/2024 -19:16 PM

Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm do Tòa án giải quyết phân chia tài sản gắn liền với đất không phù hợp, gây khó khăn cho việc thi hành án

 | 

Anh Bùi Thanh T kết hôn với chị Phạm Thị Knăm 1997, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hà, huyện LG. Sau quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mẫu thuẫn và sống ly thân từ năm 2014 đến nay. Anh T khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị K. Chị K đồng ý ly hôn với anh T.

Anh T trình bày anh và chị K có tài sản chung, anh nhất trí để lại cho các con hết, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh đồng ý kết quả định giá tài sản của vợ chồng anh có tổng trị giá 169.098.700đ, anh đề nghị Tòa án xem xét giải quyết.

Chị K cho rằng chị và anh T có tài sản chung được xây dựng trên đất của bố mẹ đẻ anh T là ông Đ, bà D có tổng giá trị 244.000.000đ. Chị K đề nghị chia cho anh T tài sản bằng hiện vật; anh T trích trả cho chị 85.000.000đ.

Ông Đ, bà D trình bày từ năm 1995 ông bà đã xây dựng nhà cấp 4 ba gian lợp ngói... để cho anh T, chị K ở nhờ trên nhà, đất. Sau quá trình sử dụng anh T, chị K đã sửa chữa lại ngôi nhà và xây dựng thêm các công trình trên đất. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tòa án đã thực hiện thủ tục xem xét thẩm định, định giá các tài sản của chị K, anh T trên thửa đất số 377, tờ bản đồ số 19, thôn Thị, xã Mỹ Hà do UBND huyện LG cấp cho hộ ông Đ, bà D diện tích 1.124m2 đất. Gồm các tài sản: 01 gian nhà cấp 4 trị giá 33.169.500đ; 01 nhà bếp 9.891.800đ; nhà tắm, nhà vệ sinh 2.418.000đ; công trình chăn nuôi 12.512.000đ; mái tôn 1.656.000đ; sân bê tông 27.517.600đ; sân gạch 3.532.800đ; tường hoa 1.751.000đ; cổng sắt 2.511.600đ; trụ cổng 138.400đ; 01 giếng khoan 2.000.000đ; giá trị sửa chữa, lắp cánh cửa nhà cấp 4 do ông Đ, bà D làm năm 1995 là 70.000.000đ. Tổng giá trị tài sản 167.098.700đ

Với nội dung vụ án nêu trên, Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện LG đã xử:

Cho anh Bùi Thanh T được ly hôn chị Phạm Thị K

Giao cho anh T được quyền quản lý, sở hữu toàn bộ tài sản chung của vợ chồng là các công trình đã xây dựng, tôn tạo, phát triển được nằm trên diện tích 1.124m2 đất ở, đất vườn tại thửa đất số 377, tờ bản đồ số 19, thôn Thị, xã Mỹ Hà do UBND huyện LG cấp cho hộ ông Đ, bà D bao gồm các tài sản: 01 gian nhà cấp 4; 01 nhà bếp; nhà tắm, nhà vệ sinh; 01 nhà công trình chăn nuôi; mái tôn; sân bê tông; sân gạch; tường hoa; cổng sắt; trụ cổng; 01 giếng khoan; Tổng giá trị tài sản trên đất cùng công tu sửa, lát nền...với tổng giá trị 167.098.700đ, song phải có trách nhiệm trích chia cho chị K 85.000.000đ tiền chia tài sản vợ chồng.

Chị K được nhận từ anh T số tiền 85.000.000đ tiền chia tài sản vợ chồng...

Xem xét nội dung vụ án và việc giải quyết phần tài sản của Tòa án nhân dân huyện LG như đã nêu trên, thấy như sau:

Tòa án đã xác định trong quá trình chung sống anh T, chị K đã tạo lập được khối tài sản chung với tổng giá trị 167.098.700đ.

Do tất cả các tài sản chung của anh T, chị K đều được xây dựng trên đất thuộc quyền sử dụng của ông Đ, bà D; được sự đồng ý của ông Đ, bà D và một phần tài sản chung của anh T chị K trị giá 70.000.000đ là tiền sửa chữa ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của ông Đ, bà D. Nên khi chị K đề nghị Tòa án giải quyết phân chia, thì phải giải quyết giao toàn bộ các tài sản này cho người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà là ông Đ, bà D sở hữu. Ông Đ, bà D thanh toán trả bằng tiền cho chị K, anh T. Nhưng Tòa án lại giải quyết giao cho anh T sở hữu tài sản, anh T trích trả chị K bằng tiền là không đúng, không đảm bảo cho việc thi hành án sau này.

Ngoài ra, Tòa án đã giải quyết anh T phải có trách nhiệm trích chia cho chị K 85.000.000đ. Nhưng phần quyết định của bản án, Tòa án không quyết định kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; là không đúng hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án không ghi rõ về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành ánlà không đúng quy định tại Điều 26 Luật thi hành án dân sự.

Để đảm bảo giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự, Viện kiểm sát tỉnh B đã ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm, kháng nghị một phần Bản ándân sự sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện LG. Đề nghị Toà án nhân dân tỉnh B giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm, xử sửa Bản ándân sự sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện LG về phần giải quyếtphân chia tài sản và khắc phục những vi phạm thiếu sót của Tòa án nhân dân huyện LG khi giải quyết vụ án như đã nêu trên./.

Nguyễn Thị Tuyết- Phòng 9, Viện KSND tỉnh Bắc Giang

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:31,421,411
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.133.140.88

    Thư viện ảnh