Công tác thu hồi tài sản được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, chú trọng, coi đây là thước đo của hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong tình hình hiện nay. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, đưa ra nhiều giải pháp, biện pháp cụ thể để thu hồi tối đa tài sản trong các vụ việc kinh tế, tham nhũng.
Trong những năm gần đây, các vụ, việc tham nhũng, chức vụ, kinh tế liên quan đến chức vụ xảy ra trên địa bàn tỉnh có xu hướng tăng cả về số lượng và tính chất phức tạp; nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng đã được phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử nghiêm minh, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và với các cơ quan tư pháp trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong giai đoạn hiện nay. Theo thống kê trong ba năm gần đây (từ năm 2022 đến năm 2024), trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 137 tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có dấu hiệu vi phạm, tội phạm trong lĩnh vực tham nhũng, kinh tế; với tổng số tiền bị chiếm đoạt, bị thất thoát được xác định phải thu hồi là 764.563 triệu đồng; tuy nhiên số tiền đã thu hồi được còn rất hạn chế, chỉ thu được là 289.090 triệu đồng; đạt tỷ lệ 37,8%.
Hội nghị kỹ năng kiểm sát giải quyết án kinh tế chức vụ, kỹ năng thu hồi tài sản tham nhũng
Qua thực tiễn giải quyết các vụ việc, vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế liên quan đến chức vụ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cho thấy, các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan, đơn vị, tổ chức có liên quan đến công tác thu hồi tài sản đã áp dụng, thực hiện các biện pháp có thể để thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, bị thất thoát; tuy nhiên một số giải pháp Đảng và Nhà nước đề ra nhằm thu hồi tối đa tài sản bị thất thoát, bị chiếm đoạt khi áp dụng vào thực tiễn vẫn còn hạn chế, khó thực hiện ở địa phương; trong khi hầu hết các vụ, việc tham nhũng, chức vụ, kinh tế liên quan đến chức vụ đều phức tạp, việc xử lý gặp nhiều khó khăn; đối tượng phạm tội là người có chức vụ, quyền hạn, người có chuyên môn, nghiệp vụ nên thủ đoạn che giấu, tẩu tán tài sản, hợp thức hóa tài sản trở nên rất tinh vi. Mặt khác, hành vi phạmtộixảy rarất lâu mớibị phát hiện xử lý,nên khi phát hiện thìngười phạm tội đã tẩu tán hoặc sử dụng hết tài sản tham nhũng. Thực tế trên đã tạo áp lực lớn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói chung, và cho ngành Kiểm sát nhân dân nói riêng trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ, nhất là trong công tác thu hồi tài sản.
Quá trình giải quyết các vụ việc, vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế liên quan đến chức vụ, các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh đã áp dụng các biện pháp tố tụng để thu hồi tài sản như: Tạm giữ tiền, tài sản (qua hoạt động khám xét), kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, tịch thu tiền, tài sản, cưỡng chế thi hành án... Tuy nhiên, quá trình áp dụng các biện pháp này gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc do kê biên tài sản chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo (chỉ áp dụng sau khi đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can), biện pháp phong tỏa tài khoản (áp dụng với người bị buộc tội trước khi khởi tố vụ án nhưng phạm vi áp dụng chỉ đối với người có tài khoản có số dư tại tổ chức tín dụng hoặc Kho bạc Nhà nước); cưỡng chế thi hành án..., và chỉ được kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu hoặc phải bồi thường… Mặt khác, để có thể kê biên tài sản, phong toả tài khoản thì các cơ quan chức năng phải tiến hành xác minh nguồn gốc tài sản, giá trị tài sản; trong khi đó trên thực tế phần lớn tài sản xác minh nhưng không kê biên được do tài sản có liên quan đến đồng sở hữu, việc thu hồi tài sản phải trên nguyên tắc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng sở hữu nên việc xử lý tài sản để thu hồi gặp nhiều khó khăn.
Từ thực tiễn giải quyết các vụ, việc cho thấy, nếu chỉ áp dụng các biện pháp tố tụng để thu hồi tài sản thì rất khó có thể thu hồi được tối đa tài sản đã bị chiếm đoạt, bị thất thoát do nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên có thể thấy, văn hóa người Việt Nam vẫn tồn tại “thói quen” giao dịch tiền mặt nên không thể kiểm soát được việc kê khai minh bạch hóa tài sản của cán bộ, công chức, viên chức; trong khi Bộ luật Hình sự chưa quy định về xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm khi không giải trình được một cách hợp lý nguồn gốc; chưa hình sự hóa hành vi làm giàu bất chính… đã tạo ra những “kẽ hở” cho các đối tượng phạm tội lợi dụng để dễ dàng tẩu tán tài sản tham nhũng dưới nhiều hình thức khác nhau như đầu tư mua cổ phiếu, bất động sản nhưng nhờ người khác đứng tên, chuyển dịch tài sản cho người khác…
Kiểm sát hoạt động khám xét nơi ở của bị can trong vụ Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng
Chính vì vậy, biện pháp vận động, tuyên truyền, thuyết phục đối tượng có hành vi phạm tội, bị can, bị cáo, gia đình và người thân của họ cũng như những người có liên quan đến hành vi phạm tội tự nguyện nộp tiền và tài sản để khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại, hoàn trả tiền, tài sản đã chiếm đoạt được cho Nhà nước, cho chủ sỡ hữu được các cơ quan tố tụng ở địa phương quan tâm, vận dụng triệt để. Trong thời gian qua, do làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, các cơ quan chức năng liên quan đến công tác thu hồi tài sản tham nhũng, chức vụ, kinh tế liên quan đến chức vụ trên địa bàn tỉnh đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, nhiều vụ án, vụ việc đã thu hồi được triệt để tài sản bị thất thoát, bị chiếm đoạt; trong đó phần lớn tài sản tham nhũng được thu hồi chủ yếu từ người phạm tội hoặc thân nhân của họ tự nguyện khắc phục, bồi hoàn. Điển hình như:
Vụ án Nguyễn Thị Thu H cùng đồng phạm phạm tội “Tham ô tài sản”, “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, “Mua bán trái phép hóa đơn”, xảy ra tại Công ty T. Trong vụ án này, H đã lợi dụng chức vụ là kế toán trưởng Công ty mua hóa đơn khống, lập hồ sơ, chứng từ để chuyển tiền từ tài khoản công ty đến các tài khoản H nhờ đứng tên, sau đó nhận lại tiền để chiếm đoạt tổng số tiền 21 tỷ đồng, chi tiêu cá nhân. Quá trình Cục Thuế tỉnh tiến hành thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật thuế tại Công ty T nhưng chủ quan, không phát hiện ra sai phạm của Công ty trong việc hạch toán thuế, gây thất thoát cho ngân sách nhà nước số tiền hơn 04 tỷ đồng. Quá trình phát hiện, giải quyết tin báo, điều tra, truy tố, xét xử vụ án trên, Kiểm sát viên đã phối hợp chặt chẽ với Điều tra viên, Thẩm phán tích cực vận động, tuyên truyền để H và gia đình, người thân cũng như các đối tượng có liên quan đến hành vi sai phạm của H nhận thức được tầm quan trọng của việc khắc phục hậu quả, nộp lại tiền và tài sản để trả lại cho Công ty T cũng như nộp tiền vào ngân sách Nhà nước. Do đó, trong giai đoạn giải quyết vụ án, H đã tự nguyện nộp tiền mặt, giao nộp xe ô tô; động viên chồng và gia đình, người thân giao nộp và đề nghị được bán xe, chuyển quyền sử dụng nhà đất để lấy tiền bồi thường cho Công ty T; các đối tượng có liên quan đã tự nguyện nộp tiền và tiếp tục vận động tuyên truyền Công ty T bồi hoàn lại toàn bộ số tiền thuế đã gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước.
Hay như vụ án Dương Thị H bị xem xét, xử lý về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. H là công chức, được phân công nhiệm vụ trả kết quả cho tổ chức, cá nhân thuộc lĩnh vực Tài nguyên - Môi trườngtại Bộ phận Một cửa của UBND huyệnH. Quá trình thực hiện nhiệm vụ được phân công, trong thời gian từ năm 2019 đến tháng 5/2023, Hđã lạm dụng chức vụ, tự ý trả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rồi nhận tiền thuế, phí của người dân để chiếm đoạt của 211 cá nhân với tổng số tiền 2,5 tỷ đồng để chi tiêu cá nhân. Quá trình làm việc với H, H khai nhận đã sử dụng tiền thuế, phí thu được của các cá nhân để đầu tư bất động sản nhưng đã thua lỗ hết; H không nhớ nhận tiền của những ai, nhận bao nhiêu, hồ sơ nào…, nay H cũng không còn tiền để khắc phục hậu quả. Quá trình giải quyết vụ án, những người tiến hành tố tụng đã đấu tranh tâm lý với H, vận động, thuyết phục H khai báo thành khẩn hành vi phạm tội; đồng thời tuyên truyền, vận động H và gia đình; tuyên truyền, vận động các đối tượng có liên quan có nghĩa vụ phối hợp với các Cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ sự thật của vụ án, có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Do đó, H và gia đình đã nhận thức được và tự nguyện bồi hoàn lại tiền để nộp thuế, phí vào ngân sách nhà nước; các cá nhân đã nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ H nhưng không nhờ H nộp hộ, cũng chưa nộp thuế phí cũng tự nguyện nộp tiền vào ngân sách nhà nước. Đến nay, hậu quả hành vi phạm tội của H cũng đã được khắc phục triệt để.
Trong vụ án kinh tế về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là thực phẩm” xảy ra tại huyện L, tỉnh Bắc Giang cũng là một ví dụ. Nguyễn Thị L, trú tại Tân An, thành phố Bắc Giang, đăng ký hộ kinh doanh cá nhân, bán hàng tạp hóa nhưng không được cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm và không công bố chất lượng sản phẩm. Lợi dụng nhu cầu thị trường, từ tháng 3/2024, L đã tự ý tổ chức sản xuất, đóng gói và phân phối hàng loạt mặt hàng thực phẩm giả tại nhà với máy móc thô sơ nhưng quy trình khá bài bản như hàn nhiệt, dập nắp, in hạn sử dụng, tem nhãn giả mạo địa chỉ và thương hiệu các công ty tại các thành phố lớn. Qua khám xét cơ sở kinh doanh của L đã thu giữ toàn bộ số tang vật là hàng hóa giả nhãn hiệu, tem nhãn giả, bao bì, nguyên liệu, máy móc… phục vụ cho việc sản xuất, đóng gói hàng giả, trị giá hơn 45 triệu đồng. Ngay sau khi bị phát hiện và khởi tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã phối hợp đấu tranh với Nguyễn Thị L, tích cực tuyên truyền, vận động đối tượng thành khẩn khai báo, nhận rõ sai phạm của mình đồng thời chủ động khắc phục hậu quả, tự nguyện bồi hoàn lại toàn bộ số tiền tương ứng với giá trị thiệt hại đã gây ra…
Mặc dù chỉ là biện pháp tuyên truyền, vận động nhưng hiệu quả thu được là rất cao, giúp đối tượng nhận thức được hành vi sai trái và có ý thức khắc phục hậu quả, góp phần làm giảm thiểu tổn thất về tiền, tài sản cho Nhà nước, cho cơ quan, tổ chức bị xâm phạm và ổn định an ninh, an toàn trật tự xã hội. Ngoài hiệu quả vật chất, việc vận động thành công đối tượng nộp lại tài sản còn mang ý nghĩa giáo dục, phòng ngừa chung trong cộng đồng. Qua đó, người dân nhận thấy sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời hiểu rằng chính sách khoan hồng luôn dành cho những ai biết ăn năn, sửa sai và hợp tác với cơ quan chức năng.
Từ thực tiễn giải quyết một số vụ án nêu trên cho thấy, vận động đối tượng phạm tội tự nguyện nộp lại tài sản không chỉ là biện pháp hỗ trợ điều tra mà còn là phương tiện truyền thông mạnh mẽ, góp phần tuyên truyền sâu rộng tinh thần “pháp luật nghiêm minh, nhưng cũng đầy nhân văn”. Việc thu hồi tài sản thành công trong vụ án này là minh chứng cho thấy đây chính là một trong những phương thức cần được phát huy trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, bị chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, chức vụ, kinh tế trong thời gian tới./.
Nguyễn Thị Huệ Anh- Văn phòng, VKSND tỉnh Bắc Giang