Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 10/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng Viện KSND tối cao “Về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ việc dân sự, vụ án hành chính” và thực hiện Kế hoạch công tác năm, trong thời gian 6 tháng đầu năm 2019 Viện KSND tỉnh Bắc Giang đã tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm trên một cấp.
Ngày 28/5/2019 Viện KSND tỉnh Bắc Giang đã ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm số 09/QĐKNPT-VKS-DS đối với Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2019/HNGĐ-ST ngày 10/5/2019 của Toà án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang đã giải quyết vụ án “Tranh chấp hôn nhân gia đình" giữa các đương sự nguyên đơn chị Trần Thị Thu H với bị đơn anh Nguyễn Tuấn A. Cụ thể như sau:
Theo lời khai của các bên đương sự và tài liệu có trong hồ sơ thể hiện, chị H kết hôn với anh Tuấn A ngày 21/10/2011, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau qua trình chung sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn. Chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 6/2012, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Tuấn A. Anh Tuấn A cho rằng tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh không đồng ý ly hôn. Chị H và anh Tuấn A có 01 con chung là cháu Nguyễn Quang H, sinh ngày 10/8/2012. Hiện nay cháu H đang ở với chị H. Vợ chồng ly hôn chị H và anh Tuấn A đều có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, chị H và anh Tuấn Anh đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Với nội dung vụ án nêu trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2019/HNGĐ-ST ngày 10/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện L đã áp dụng Điều 28, 35, 147, 235, 264, 271, 273 Bộ LTTDS; Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Xử cho chị Trần Thị Thu H được ly hôn anh Nguyễn Tuấn A. Giao chị Trần Thị Thu H nuôi con chung là Nguyễn Quang H. Anh Tuấn A được quyền thăm nom con sau khi đã ly hôn, không ai được cản trở anh Tuấn A thực hiện quyền này....
Xem xét nội dung vụ án và việc giải quyết vụ án của Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang xét thấy như sau:
Tại thời điểm Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, bị đơn anh Tuấn A đang phải đi chấp hành án phạt tù tại Trại giam V. Ngày 4/4/2019 Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2019/QĐXXST-DS (mở phiên tòa ngày 23/4/2019). Tòa án đã gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử cho anh Tuấn A qua đường bưu điện (theo địa chỉ nơi anh Tuấn A đang chấp hành án phạt tù).
Phiên tòa ngày 23/4/2019 anh Tuấn A vắng mặt, nên Tòa án đã hoãn phiên tòa. Đến ngày 10/5/2019 Tòa án mở phiên tòa, anh Tuấn A vắng mặt. Tòa án đã tiến hành xét xử vắng mặt anh Tuấn A. Tại phần nêu nội dung vụ án của bản án, Tòa án nêu anh Tuấn Anh đã được Tòa án thông báo phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai.
Xem xét việc Tòa án xét xử vắng mặt anh Tuấn A thấy rằng, anh Tuấn A không có đơn xin vắng mặt khi Tòa án giải quyết vụ án. Anh Tuấn A đang phải đi chấp hành án phạt tù nên khi nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử, anh Tuấn A không thể tự mình đến Tòa án được. Nhưng khi mở phiên tòa xét xử vụ án, Tòa án không làm thủ tục đề nghị Trại giam nơi anh Tuấn A đang cải tạo trích xuất để anh Tuấn A được tham gia phiên tòa. Như vậy, Tòa án chưa triệu tập hợp lệ anh Tuấn A đến lần thứ hai đã tiến hành xét xử vắng mặt anh Tuấn A.
Việc Tòa án nêu là anh Tuấn A đã được Tòa án thông báo phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai và xét xử vụ án vắng mặt anh Tuấn A là không có căn cứ, vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng, xâm phạm quyền được tham gia phiên tòa của anh Tuấn A, không đúng quy định tại khoản 15 Điều 70, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
Ngoài ra Tòa án còn có thiếu sót là ngày 02/4/2019 anh Tuấn A không được Tòa án trích xuất đến trụ sở TAND huyện L. Nhưng tại biên bản giải thích quyền được trợ giúp pháp lý cho anh Tuấn A ghi ngày 02/4/2019 lại ghi là biên bản được lập tại trụ sở TAND huyện L là không đúng.
Tại phần nhận định, quyết định của bản án, Tòa án không nhận định, viện dẫn căn cứ điều luật nào để tiến hành xét xử vắng mặt anh Tuấn A là không đúng quy định tại Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự; mẫu số 52 (mẫu bản án) ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao.
Vụ án nêu trên là một vụ án đơn giản, không có tính chất phức tạp cả về tố tụng và nội dung. Nhưng Tòa án lại có vi phạm thiếu sót trong việc chấp hành trình tự thủ tục tố tụng. Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, đảm bảo quyền được tham gia phiên tòa của đương sự, Viện KSND tỉnh Bắc Giang đã ban hành quyết định kháng nghị đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử vụ án theo hướng hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại./.
Nguyễn Thị Tuyết- Phòng 9