ĐOÀN KẾT, TRÁCH NHIỆM - KỶ CƯƠNG, LIÊM CHÍNH - BẢN LĨNH, HIỆU QUẢ!

Thứ sáu, 22/11/2024 -06:51 AM

Xét xử vụ án khi đương sự đang bị truy nã, bản án sơ thẩm bị Tòa án cấp phúc thẩm xử hủy án

 | 

Ông Nguyễn Trọng H trình bày, ngày 06/3/2014 ông đã cho ông Nguyễn Trọng L và bà Phạm Thị Minh T vay 700.000.000đ để kinh doanh; thời hạn vay là 05 tháng. Khi vay ông L có thế chấp cho ông diện tích đất 96m2 trong tổng diện tích 388m2 đất gia đình ông L đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến hết hạn trả nợ, ông đã đòi nhiều lần nhưng ông L không trả được nợ, không bàn giao tài sản thế chấp. Ông H khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết buộc ông L phải trả cho ông số tiền 700.000.000đ đã vay.

Ông Nguyễn Trọng L trình bày, ông và bà T có quan hệ tình cảm chung sống với nhau như vợ chồng, nhưng không có đăng ký kết hôn. Đến năm 2013, ông và bà T không còn chung sống cùng nhà với nhau nữa. Ngày 06/3/2014 bà T có gọi ông đến nhà bà T. Khi đến nơi thì đã thấy có ông H ở đó. Bà T đã ép ông ký vào giấy tờ do bà T đã viết sẵn. Do sợ bà T không cho về nên mặc dù mắt kém không đọc được rõ nội dung nhưng ông vẫn phải ký vào các giấy tờ này. Sau đó, ông H nói lại cho ông biết giấy tờ mà ông ký là giấy vay tiền 700.000.000đ và giấy tờ thế chấp quyền sử dụng đất của ông cho ông H. Ông xác định ông không vay và không được nhận tiền của ông H. Ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông H; không đồng ý trả ông H số tiền 700.000.000đ.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án bà Phạm Thị Minh T không có mặt tại nơi cư trú cuối cùng; không xác định được hiện bà T đang ở đâu. Tòa án tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho bà T. Bà T không đến Tòa án làm việc, không gửi văn bản ghi ý kiến của bà đối với yêu cầu khởi kiện của ông H. 

Tòa án nhân dân huyện H đã mở phiên tòa xét xử vụ án và giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H. Buộc ông L và bà T phải liên đới trả cho ông H số tiền 700.000.000đ.

Sau khi xét xử sơ thẩm ông L có đơn kháng cáo không đồng ý việc Tòa án buộc ông phải liên đới cùng bà T trả cho ông H số tiền 700.000.000đ.

Viện KSND tỉnh B có quyết định kháng nghị, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xử hủy bản án sơ thẩm giải quyết vụ án nêu trên do có vi phạm về thủ tục tố tụng và nội dung.

Xem xét việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm thấy rằng, khi thụ lý giải quyết vụ án Tòa án đã xác định bà T có hộ khẩu thường trú tại xã Đồng Bẩm, huyện Đồng Hỷ, tỉnh T. Nơi cư trú cuối cùng tại Khu đô thị mới, thị trấn Chờ, huyện Yên Phong, tỉnh B là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Bà T hiện đang bị truy nã theo quyết định truy nã ngày 21/7/2015 của Cơ quan công an về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nhưng Tòa án lại nhận định bà T thay đổi nơi cư trú, không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nhằm mục đích che giấu địa chỉ, để thực hiện việc niêm yết các văn bản tố tụng đối với bà T và tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà T là không đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Ông H chỉ khởi kiện yêu cầu ông L phải trả nợ 700.000.000đ. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại giải quyết buộc cả bà T phải có trách nhiệm liên đới cùng ông L trả nợ cho ông H số tiền 700.000.000đ là giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện của nguyên đơn, vi phạm quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Theo ông H khai, việc vay tiền là do cả ông L và bà T vay và ký nhận nợ. Ông L thừa nhận có ký giấy vay nợ do bà T viết sẵn ép ký, nhưng lúc ký ông không rõ là nội dung gì và xác định không có việc vay nợ cũng như thế chấp quyền sử dụng đất của ông cho ông H. Bà T chưa có lời khai về việc vay nợ. Việc Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào giấy vay nợ do nguyên đơn xuất trình để buộc ông L bà T phải trả ông H số tiền 700.000.000đ là chưa đủ cơ sở, không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ông L, bà T.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc ông L, bà T phải liên đới trả cho ông H số tiền 700.000.000đ, nhưng không quyết định rõ từng người phải trả cho ông H bao nhiêu là không đúng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; gây khó khăn cho việc thi hành án sau này.

Do trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm có những vi phạm  nghiêm trọng về thủ tục tố tụng; giải quyết nội dung vụ án không đúng quy định của pháp luật; ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nên Tòa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, chấp nhận kháng cáo của ông L, hủy bản án sơ thẩm; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án./.

Lương Thanh Hảo- Phòng 9

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:31,412,287
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.147.65.111

    Thư viện ảnh