Ngày 15/11/2024, Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 152/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ).
Nghị định số 152/NĐ-CP có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2025, trong đó có một điểm mới đáng lưu ý đó là bãi bỏ điểm c khoản 2 Điều 24 của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 quy định việc kê biên, xử lý đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng mà trước đây đã gây ra nhiều vướng mắc, tồn đọng rất nhiều vụ việc thi hành án do giữa Cơ quan Thi hành án dân sự, Tòa án và Viện kiểm sát có quan điểm, nhận thức khác nhau trong việc áp dụng quy định tại Khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự và điểm c khoản 2 Điều 24 của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP về thủ tục, thẩm quyền giải quyết phân chia tài sản chung của vợ, chồng để thi hành án.
Quy định tại điểm c khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP gây khó khăn cho Chấp hành viên trong quá trình thực hiện bởi vì Chấp hành viên không có cơ sở để xác định được các tiêu chí thực hiện việc phân chia tài sản chung vợ chồng, hộ gia đình. Khi Chấp hành viên thực hiện khởi kiện yêu cầu Toà án thực hiện phân chia theo quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự thì Toà án nhân dân các cấp không thụ lý yêu cầu vì cho rằng Chấp hành viên chưa thực hiện hết quyền theo quy định này nên không có cơ sở để thụ lý yêu cầu của Chấp hành viên.
Tại Điều 2 Nghị định số 152/NĐ-CP bãi bỏ điểm c khoản 2 Điều 24 của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP là phù hợp, bởi lẽ:
- Thứ nhất, theo quy định tại Điều 213 BLDS năm 2015 quy định về chế độ sở hữu chung vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia. Khoản 4 Điều 213 BLDS quy định tài sản chung của vợ chồng chỉ có thể phân chia theo thoả thuận của vợ chồng hoặc theo quyết định của Toà án. Như vậy, Bộ luật dân sự không quy định phân chia tài sản chung của vợ chồng bởi Chấp hành viên.
- Thứ hai, Chấp hành viên muốn xác định được phần sở hữu của vợ hoặc chồng trong khối tài sản chung thì phải thực hiện việc xác định theo các quy định của pháp luật về dân sự, hôn nhân và gia đình. Việc chia tài sản chung của vợ chồng không đơn thuần là chỉ xác định chia đôi mà còn phải tính đến các yếu tố khác do luật quy định (công sức đóng góp; hoàn cảnh vợ chồng; bảo vệ quyền lợi phụ nữ, trẻ em; yếu tố lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng;…). Vì vậy, muốn phân chia được thì phải xác minh, giải quyết như một vụ án thì mới xác định được, nên Chấp hành viên không thể thực hiện được.
Như vậy, kể từ thời điểm ngày 01/01/2025 khi Nghị định 152/NĐ-CP của Chính phủ có hiệu lực thì khi Cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện việc cưỡng chế thi hành án đối với tài sản chung (kể cả tài sản chung của vợ chồng) thì Chấp hành viên cần phải xác minh để xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án. Trường hợp qua xác minh mà có đủ căn cứ để xác định được phần sở hữu của các chủ sở hữu chung thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 74 Luật thi hành án dân sự; trường hợp chưa xác định được phần sở hữu của các chủ sở hữu chung thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật thi hành án dân sự.
Thực tế hiện nay, số lượng các vụ việc thi hành án dân sự thuộc trường hợp tài sản chung của vợ chồng, hộ gia đình còn tồn đọng khá lớn, nhiều trường hợp đương sự không hợp tác dẫn đến việc thi hành án có điều kiện thi hành nhưng Cơ quan Thi hành án dân sự không xử lý được tài sản; do vậy trong thời gian tới Cơ quan Thi hành án dân sự cần chủ động rà soát các vụ việc còn tồn đọng, phối hợp chặt chẽ với Tòa án, Viện kiểm sát cùng cấp để tổ chức thi hành án dứt điểm đối với các trường hợp có vướng mắc trong việc chưa xác định được phần sở hữu của vợ hoặc chồng trong khối tài sản chung theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người được thi hành án cũng như vợ hoặc chồng của người phải thi hành án theo quy định của pháp luật./.
Ngô Văn Tuấn- VKSND huyện Tân Yên