.

Thứ tư, 03/07/2024 -06:19 AM

Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân gia đình, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2024

 | 

.Nghị quyết gồm 12 điều, trong đó hướng dẫn cụ thể một số nội dung sau:

- Về quyền yêu cầu giải quyết ly hôn quy địnhtại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình (Điều 2) đã giải thích thế nào là “Đang có thai”“Sinh con”. Theo đó, người chồng không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn trong khoảng thời gian dưới 12 tháng tính từ ngày vợ sinh con hoặc ngày đình chỉ thai nghén và không phân biệt vợ có thai, sinh con với ai. Trường hợp vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu ly hôn mà không phân biệt con đẻ, con nuôi. Ngoài ra điều luật còn quy định chồng của người mang thai hộ, chồng của người nhờ mang thai hộ không có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi hoặc khi người mang thai hộ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

- Về Thuận tình ly hôn quy định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình (Điều 3) đã giải thích thế nào là “Vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn - là trường hợp vợ chồng cùng ký vào đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn hoặc một bên có đơn khởi kiện ly hôn, còn bên kia đồng ý ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn. 

- Về “Việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con” - là việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

- Về Ly hôn theo yêu cầu của một bênquy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình (Điều 4) hướng dẫn cách hiểu “Vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình” là vợ, chồng có hành vi quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.Đó là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, tình dục, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. Điều luật cũng quy định về hành vi“Vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng”, giải thích thế nào là “Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

-  Đặc biệt, Điều 5 của Nghị quyết 01 quy định việc hạn chế phân chia di sản của vợ, chồng trong trường hợp một bên chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết quy định tại khoản 3 Điều 66 của Luật Hôn nhân và gia đình. Quy định này nhằm bảo đảm cho quyền và lợi ích của vợ hoặc chồng còn sống, nếu chia di sản này cho người thừa kế thì vợ hoặc chồng còn sống và gia đình gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống như: không có chỗ ở, mất nguồn tư liệu sản xuất duy nhất.., sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của vợ hoặc chồng còn sống và gia đình.

- Về giải quyết việc nuôi con khi ly hôn quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình (Điều 6) cần chú trọng xem xét “quyền lợi về mọi mặt của con” đó là phải đánh giá khách quan, toàn diện các tiêu chí như: Điều kiện, khả năng của cha, mẹ trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, bao gồm cả khả năng bảo vệ con khỏi bị xâm hại, bóc lột, quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi, được duy trì mối quan hệ với người cha, mẹ không trực tiếp nuôi; Sự gắn bó, thân thiết của con với cha, mẹ; Sự quan tâm của cha, mẹ đối với con; Bảo đảm sự ổn định, hạn chế sự xáo trộn môi trường sống, giáo dục của con; Nguyện vọng của con được ở cùng với anh, chị, em (nếu có) để bảo đảm ổn định tâm lý và tình cảm của con; Nguyện vọng của con được sống chung với cha hoặc mẹ. Điểm đáng chú ý là khi lấy ý kiến của con chưa thành niên từ đủ 07 tuổi trở lên phải bảo đảm các yêu cầu: Bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, độ tuổi, mức độ trưởng thành để con có thể bày tỏ đúng và đầy đủ ý kiến của mình; Không lấy ý kiến trước mặt cha, mẹ để tránh gây áp lực tâm lý cho con và không ép buộc, không gây áp lực, căng thẳng cho con.

- Về Nghĩa vụ cấp dưỡng cho conquy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình (Điều 7) hướng dẫn trường hợp các bên không thoả thuận được thì Tòa án quyết định mức cấp dưỡng căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Mức cấp dưỡng do Tòa án quyết định nhưng không thấp hơn một nửa tháng lương tối thiểu vùng tại nơi người cấp dưỡng đang cư trú cho mỗi tháng đối với mỗi người con.

- Điều 8 hướng dẫn cụ thể trong trường hợp nào thì cha hoặc mẹ bịhạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên là thuộc các trường hợp:Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý”, người có hành vi“Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con”,“Phá tán tài sản của con” và “Có lối sống đồi trụy”, “Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội”.

Ngoài ra, Nghị quyết còn hướng dẫn việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ án về hôn nhân và gia đình trong một số trường hợp có tranh chấp về bất động sản. Trường hợp cha và mẹ là người Việt Nam định cư ở nước ngoài có đơn khởi kiện về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, con chung đang sinh sống tại Việt Nam; Việc giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ và quy định các trường hợp phải chịu án phí.

Có thể thấy rằng, việc ban hành Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng, đã hướng dẫn chi tiết, cụ thể tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đáp ứng yêu cầu trên thực tế nhằm áp dụng thống nhất một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình./.

Trần Lệ Toàn- VKSND huyện Tân Yên

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:28,350,326
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.145.165.184

    Thư viện ảnh