.

Thứ ba, 16/04/2024 -19:31 PM

Viện kiểm sát kháng nghị do Tòa án phân chia tài sản chung vợ chồng không đúng quy định pháp luật

 | 

Ông Năm và bà Dung kết hôn với nhau năm 1990; có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, ông Năm khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Dung. Bà Dung đồng ý ly hôn.

Ông Năm và bà Dung có tài sản chung là quyền sử dụng đất đã được UBND thành phố B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) diện tích 134,7m2; nhưng ông Năm, bà Dung còn phải có nghĩa vụ nộp cho Nhà nước 152.460.000 đồng. Ông Năm đề nghị Tòa án giải quyết phân chia tài sản theo quy định của pháp luật. Bà Dung cho rằng, nguồn gốc đất là do bà Dung là công nhân Điện lực nên mới được cấp. Bà đề nghị Tòa án giao cho bà sử dụng. Số tiền nợ theo GCNQSDĐ, bà sẽ có nghĩa vụ thanh toán và bà chỉ đồng ý trích trả cho ông Năm 150.000.000đ.

Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc đất diện tích đất hiện trạng là 146,3m2 và định giá đất giá 6.000.000đ/m2.

Với nội dung vụ án nêu trên, Bản án dân sự sơ thẩm của TAND thành phố B đã giải quyết: Công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Năm và bà Dung. Giao cho bà Dung quyền sử dụng diện tích 134,7m2 đất theo GCNQSDĐ; diện tích qua đo thực tế là 146,3m2 được định giá là 877.800.000đ.

Bà Dung phải thực hiện nghĩa vụ nộp cho Nhà nước số tiền 152.460.000đ. Bà Dung phải trích chia một phần tài sản cho ông Năm là 200.000.000đ

....

Bà Dung phải chịu 31.112.000đ án phí phân chia tài sản...

Xem xét việc Tòa án giải quyết phân chia tài sản và giải quyết phần án phí thấy rằng:

Theo GCNQSDĐ do UBND thành phố B cấp thì ông Năm và bà Dung chỉ được quyền sử dụng diện tích đất 134,7m2.

Khi Tòa án thực hiện thủ tục đo đạc thì hiện trạng đất có diện tích 146,3m2; tăng 11,6m2 so với diện tích đất đã được cấp GCNQSDĐ. Nhưng khi giải quyết vụ án Tòa án không đưa UBND thành phố B vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan để làm rõ lý do diện tích tăng, ý kiến quan điểm giải quyết số diện tích đất tăng của Ủy ban là đưa thiếu người tham gia tố tụng, vi phạm quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự. Đồng thời Tòa án chưa làm rõ vị trí, kích thước của phần diện tích đất tăng; sơ đồ hiện trạng thửa đất không thể hiện kích thước các cạnh tiếp giáp. Việc Tòa án xác định cả phần diện tích đất tăng lên 11,6m2 là tài sản chung của ông Năm, bà Dung và giải quyết phân chia cho bà Dung được sử dụng tài sản bằng hiện vật (đất) và trích trả cho ông Năm bằng tiền đối với cả phần diện tích 11,6m2 này là không có căn cứ, không đúng quy định của pháp luật;

Tòa án giải quyết giao cho bà Dung được quyền sử dụng 146,3m2 trị giá 877.800.000đ; bà Dung còn phải nộp tiền sử dụng đất 152.460.000đ; bà Dung phải chia tài sản cho ông Năm 200.000.000đ. Số tài sản bà Dung còn được hưởng 525.340.000đ. Căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với giá trị phần tài sản họ được chia. Bà Dung phải chịu số tiền án phí đối với tài sản được chia là 25.013.000đ. Nhưng Tòa án buộc bà Dung phải chịu 31.112.000đ án phí phân chia tài là không đúng, ảnh hưởng đến quyền lợi của bà Dung.

Vì khi giải quyết vụ án Tòa án có những vi phạm, thiếu sót như đã nêu trên, nên bà Dung đã kháng cáo và Viện kiểm sát cấp sơ thẩm đã kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm; xác định lại diện tích đất là tài sản chung của ông Năm, bà Dung theo đúng diện tích đất ghi trong GCNQSDĐ và giải quyết phân chia cho ông Năm, bà Dung; sửa phần giải quyết án phí đương sự phải chịu theo giá trị tài sản đương sự được phân chia.

Kết quả, Tòa án cấp phúc thẩm đã xử chấp nhận kháng cáo của bà Dung và kháng nghị của Viện kiểm sát. Sửa bản án sơ thẩm./.

Nguyễn Thị Tuyết- Phòng 9, Viện KSND tỉnh Bắc Giang

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:27,666,713
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:18.226.93.209

    Thư viện ảnh