.

Thứ bảy, 20/04/2024 -10:17 AM

4.2. HOẠT ĐỘNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN KHI THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ SƠ THẨM

 | 

1. Hoạt động chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm hình sự của Kiểm sát viên

Nghiên cứu hồ sơ vụ án.

- Kiểm sát viên kiểm tra chặt chẽ thủ tục giao nhận hồ sơ và vật chứng vụ án giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát bằng cách nghiên cứu biên bản bàn giao hồ sơ và đối chiếu với từng bút lục của hồ sơ vụ án để xem có thiếu bút lục nào không.

- Hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra phải được đánh số theo trật tự nhất định. Từng trang tài liệu trong các hồ sơ này phải được đóng dấu bút lục của Cơ quan điều tra và kèm theo bản kê đầy đủ tên tài liệu, số trang từng tài liệu và lưu trong hồ sơ vụ án. Kiểm sát viên phải kiểm tra từng trang, tập hồ sơ, đối chiếu với bảng kê tài liệu có trong hồ sơ để quyết định nhận hay không nhận hồ sơ. Nếu phát hiện hồ sơ thiếu bút lục thì phải trả hồ sơ để yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục. Nếu đủ và đúng thì nhận và vào sổ thụ lý và ghi ngày nhận hồ sơ vào bìa hồ sơ.

- Kiểm sát viên tham gia phiên toà phải trực tiếp nghiên cứu toàn bộ hồ sơ của vụ án để nắm vững: nội dung vụ án, hành vi phạm tội của các bị cáo; các chứng cứ buộc tội, gỡ tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; các yêu cầu về bồi thường thiệt hại hoặc trách nhiệm dân sự (nếu có) trong vụ án; phân tích đánh giá tổng hợp vụ án; áp dụng các điều, khoản của Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự để chuẩn bị thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên toà.

Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải trích cứu đầy đủ, trung thực lời khai của bị can, của những người tham gia tố tụng và các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án.

- Kiểm sát viên phải nghiên cứu toàn diện vụ án. Các tài liệu, chứng cứ (buộc tội hoặc gỡ tội) đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Do vậy, không thể xem xét các tài liệu một cách biệt lập, tách rời.

Kiểm sát viên cần phân loại tài liệu theo tập (nhóm) hợp lý phù hợp với chủ đề nghiên cứu theo một trật tự nhất định. Kiểm sát viên cần hệ thống các tài liệu, chứng cứ chứng minh các sự kiện phạm tội, qua đó bằng hoạt động tư duy có thể dựng lại được toàn bộ vụ án diễn ra trong thực tiễn. Thông thường có thể phân thành các tập: Tập về thủ tục tố tụng; tập về kết quả khám nghiệm; tập về ý kiến của những nhà chuyên môn, kỹ thuật; tập về biên bản ghi lời khai; các tài liệu kết thúc điều tra; các tài liệu về nhân thân bị can; các tài liệu về thu giữ vật chứng, kê biên…

- Hồ sơ vụ án gồm nhiều tài liệu như các tài liệu về lời khai của bị can, người bị hại, người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi v.v. trong đó có tài liệu mâu thuẫn với nhau như các lời khai của người làm chứng mâu thuẫn với các lời khai của bị can hoặc lời khai của bị can mâu thuẫn với các tài liệu khác như biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi v.v.. Khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên cần đối chiếu, so sánh để loại trừ những nội dung không hợp lý, chắt lọc các nội dung hợp lý để phân tích, đánh giá một cách tổng hợp về các tình tiết của vụ án. Điều đó đòi hỏi Kiểm sát viên không những nghiên cứu một cách toàn diện, mà còn phải so sánh, tổng hợp để xác định các tình tiết có thực của vụ án, loại trừ những tình tiết không có thực của vụ án.

- Đối với những lời khai của bị can, bị hại, người làm chứng… phải lược ghi những nội dung chính. Tài liệu ghi chép, cần phải sắp xếp khoa học theo từng tập, có viện dẫn bút lục trong hồ sơ để dễ tìm khi cần thiết. Tránh tình trạng không ghi chép, chỉ sao chụp (photocoppy) lại các bản lời khai, sẽ dẫn đến thiếu chủ động, lúng túng; nhất là khi gặp trường hợp bị cáo hoặc luật sư đưa ra những lý lẽ trái ngược với lời buộc tội của Kiểm sát viên. Đối với những chứng cứ quan trọng như biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định v.v… cần phải sao chép, photocopy để sử dụng tại phiên toà.

Kiểm sát viên có thể kiểm tra các tài liệu, chứng cứ trong các trường hợp cần thiết, nhằm xác định rõ các mâu thuẫn mà qua nghiên cứu hồ sơ Kiểm sát viên đã phát hiện được.

- Để có quan điểm đánh giá chính xác về vụ án và trên cơ sở đó có biện pháp xử lý vụ án đúng với các quy định của pháp luật, Kiểm sát viên cần tổng hợp, phân tích, đánh giá về vụ án. Khi tổng hợp đánh giá cần chú ý các nội dung sau:

+ Đánh giá khái quát về thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm, diễn biến hành vi phạm tội của các bị can, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của của hành vi phạm tội. Trên cơ sở hồ sơ vụ án, bản kết luận điều tra và các tài liệu khác, Kiểm sát viên cần tổng hợp, đánh giá, phân tích toàn bộ vụ án, tiến hành hệ thống các chứng cứ buộc tội và các chứng cứ gỡ tội.

Các chứng cứ buộc tội gồm có lời khai nhận tội của bị can, lời khai người làm chứng về các tình tiết liên quan đến hành vi của bị can, nhân thân bị can, biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng, giám định chuyên môn, giám định pháp y, kết quả xác minh của Cơ quan điều tra và của Kiểm sát viên… có giá trị chứng minh hành vi của bị can là hành vi phạm tội. Đây là các căn cứ hết sức quan trọng khẳng định tính có căn cứ của hành vi phạm tội của bị can, đồng thời, đây là cơ sở pháp lý để Kiểm sát viên tiến hành tranh luận, đối đáp với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác.

+ Các chứng cứ gỡ tội là các chứng cứ chứng minh bị can không phạm tội hoặc phạm tội nhẹ hơn so với tội phạm đã bị khởi tố, điều tra. Ngoài ra, chứng cứ gỡ tội còn thể hiện các tài liệu đã thu thập có nhiều mâu thuẫn, nhưng không được giải quyết, như các lời khai của bị can, người làm chứng mâu thuẫn với nhau, hoặc lời khai đó không phù hợp với hiện trường. Kiểm sát viên phải hệ thống và nắm chắc các mâu thuẫn này để giải quyết.

+ Kiểm sát viên phải tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án để khảng định các nội dung cơ bản như: Vụ án có bao nhiêu bị can hành vi của các bị can phạm tội gì, cần áp dụng điểm, khoản, điều nào của BLHS, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, các chứng cứ buộc tội, các chứng cứ gỡ tội. Trên cơ sở đó, đề xuất xử lý vụ án theo theo quy định tại khoản 1 Điều 166 BLTTHS.

+ Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử những vụ án trọng điểm, phức tạp của Viện kiểm sát cấp huyện, thì Viện kiểm sát cấp huyện phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp tỉnh; những vụ án trọng điểm, phức tạp của Viện kiểm sát cấp tỉnh thì Viện kiểm sát cấp tỉnh phải báo cáo Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự hoặc Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm khu vực biết để cử Kiểm sát viên theo dõi, nghiên cứu nắm vững hồ sơ vụ án nhằm phục vụ cho công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử.

Xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ hoặc gặp bị cáo

- Khi cần thiết Kiểm sát viên đến xem xét tại chỗ đối với những vật chứng không thể đưa đến phiên toà được; xem xét nơi xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án; gặp bị cáo để hỏi cung đối với những trường hợp: Vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, vụ án có bị cáo mà Kiểm sát viên đề nghị xử phạt tù chung thân hoặc tử hình, lời khai của các bị cáo trong vụ án có mâu thuẫn, bị cáo kêu oan hoặc những trường hợp Viện kiểm sát thấy cần thiết.

- Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện tổ chức thực nghiệm điều tra bằng cách cho dựng lại hiện trường diễn lại hành vi, tình huống. Khi thấy cần có thể đo đạc, chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ.

- Việc xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ hoặc gặp bị cáo phải lập biên bản theo quy định của BLTTHS.

Giải quyết việc Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung

- Khi Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ các nội dung Toà án yêu cầu điều tra bổ sung, xác định căn cứ Toà án trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung. Xem xét lại các tài liệu có trong hồ sơ để xác định những yêu cầu của Toà án đã được phản ánh trong hồ sơ như thế nào? Các yêu cầu đó đã đúng với tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quy định của BLHS, BLTTHS hay không?

- Kiểm sát viên cần kiểm tra tính hợp pháp của quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung. Căn cứ Điều 179 BLTTHS thì Thẩm quyền ban hành quyết định trả hồ sơ phải là Thẩm phán chủ toạ phiên toà; Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải nêu rõ thuộc trường hợp cụ thể nào quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 179 BLTTHS và những vấn đề cụ thể cần điều trả bổ sung.

- Sau khi nhận được hồ sơ vụ án và quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, nếu xác định việc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án là không có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện về nội dung quyết định trả hồ sơ; phân tích sự thiếu căn cứ và không hợp pháp của quyết định này (chứng minh bằng hồ sơ vụ án và các quy định của BLTTHS) hoặc xác định rõ các yêu cầu của Toà án là không thể thực hiện được hoặc xác định rõ vấn đề Toà án yêu cầu hoàn toàn có thể làm rõ tại phiên toà và Kiểm sát viên đề xuất hướng giải quyết là: Chuyển lại hồ sơ cho Toà án, tiếp tục đề nghị truy tố. Nếu lãnh đạo đồng ý thì Kiểm sát viên lập văn bản trả lời Toà án, trong đó nêu rõ lý do giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án để đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 179 của BLTTHS.

- Nếu xác định việc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung của Toà án là có căn cứ thì Kiểm sát viên phải báo cáo với lãnh đạo Viện hoặc lãnh đạo đơn vị nghiệp vụ, đồng thời đề xuất rõ hướng bổ sung chứng cứ theo yêu cầu của Toà án theo một trong những cách sau đây:

+ Nếu những yêu cầu điều tra bổ sung không quá phức tạp và Viện kiểm sát có thể tiến hành được theo quy định của BLTTHS, Quy chế nghiệp vụ của ngành thì Kiểm sát viên đề xuất không phải trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra mà Viện kiểm sát tự mình bổ sung chứng cứ. Nếu lãnh đạo Viện đồng ý với phương án này thì Kiểm sát viên phải lập kế hoạch cụ thể để tiến hành việc bổ sung chứng cứ và thông qua lãnh đạo đơn vị phê duyệt (cần thiết thì xin ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Viện).

+ Nếu các yêu cầu điều tra bổ sung quá phức tạp thì Kiểm sát viên đề xuất với lãnh đạo Viện trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra tiến hành việc điều tra bổ sung. Trong văn bản trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra cũng phải nêu rõ lý do, những yêu cầu điều tra bổ sung cụ thể; thời hạn thực hiện.

- Sau khi có kết quả điều tra bổ sung (do Viện kiểm sát hoặc Cơ quan điều tra thực hiện), Kiểm sát viên phải xem xét kỹ các tài liệu này và đánh giá với hệ thống tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án xem đã đầy đủ, chính xác chưa? Có đúng với yêu cầu điều tra bổ sung của Toà án không?.

- Đối với trường hợp tài liệu điều tra bổ sung không làm thay đổi nội dung quyết định truy tố trước đây hoặc việc điều tra bổ sung không thể tiến hành theo yêu cầu của Toà án thì Kiểm sát viên báo cáo với lãnh đạo Viện để ban hành văn bản trả lời Toà án và giữ nguyên quan điểm truy tố.

- Đối với trường hợp tài liệu điều tra bổ sung làm thay đổi nội dung quyết định truy tố, cụ thể như:

+ Thay đổi về tội danh hoặc xác định có đồng phạm khác thì Kiểm sát viên phải đề xuất với lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan điều tra thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Sau khi hoàn thành việc điều tra bổ sung, Kiểm sát viên phải lập lại bản cáo trạng phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mới thu thập được.

+ Trường hợp thay đổi về điểm, khoản, áp dụng của điều luật... thì Kiểm sát viên yêu cầu Cơ quan điều tra kết luận điều tra bổ sung sau đó lập cáo trạng truy tố theo điểm, khoản mới...

- Đối với trường hợp tài liệu điều tra bổ sung dẫn đến việc phải đình chỉ điều tra theo quy định của BLHS và BLTTHS thì Kiểm sát viên báo cáo với lãnh đạo Viện quyết định. Trường hợp đình chỉ điều tra toàn bộ vụ án thì phải thông báo cho Toà án biết còn việc đình chỉ điều tra đối với một hay nhiều bị can trong số các bị can của vụ án) thì phải tiếp tục lập cáo trạng để truy tố các bị can còn lại. Việc thay đổi nội dung quyết định truy tố đều phải thông báo cho bị can, những người tham gia tố tụng.

- Đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và giao cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm nếu phát hiện có căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung thì Kiểm sát viên báo cáo Lãnh đạo viện có ý kiến trao đổi với Tòa án cùng cấp để làm rõ những vấn đề điều tra bổ sung trước khi báo cáo với Viện kiểm sát cấp trên xem xét, quyết định.

Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử của Toà án

Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án về thẩm quyền xét xử; về việc chuyển vụ án; về thời hạn chuẩn bị xét xử; về việc ra các quyết định: Quyết định áp dụng thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và việc giao các quyết định này theo Điều 182 BLTTHS.

Nếu phát hiện có vi phạm pháp luật thì báo cáo lãnh đạo Viện kiến nghị, yêu cầu Toà án khắc phục hoặc kháng nghị theo các quy định của BLTTHS.

Kiểm sát viên phải căn cứ vào tính chất của từng vụ án và yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương báo cáo lãnh đạo Viện để chủ động phối hợp với Toà án tổ chức phiên toà xét xử cho thiết thực, phù hợp với thực tế nhằm tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân.

- Kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử:

Kiểm sát viên phải kiểm sát thời hạn ban hành một trong những quyết định sau đây của Thẩm phán chủ toạ phiên toà: Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung; Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

Các quyết định này đều phải được Thẩm phán chủ toạ phiên toà đưa ra trong thời hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS. Thời hạn chuẩn bị xét xử đã được Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn cụ thể tại mục 1.2 Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004. Nếu quá thời hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS mà Thẩm phán chưa ban hành một trong những quyết định trên thì Kiểm sát viên phải yêu cầu Thẩm phán chuyển ngay cho Viện kiểm sát quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử.

- Kiểm sát việc áp dụng thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn:

Đối với các quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn thì Kiểm sát viên phải kiểm sát tính hợp pháp của các quyết định này với các yêu cầu sau:

+ Căn cứ Điều 177 BLTTHS thì việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam phải do Chánh án hoặc Phó Chánh án thực hiện; các biện pháp ngăn chặn khác do Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà thực hiện.

+ Thời hạn tam giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 BLTTHS và tại Mục 2.2 Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần thiết tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa. Kiểm sát viên phải phát hiện và kiến nghị kịp thời các trường hợp để quá hạn tạm giam của Toà án.

- Kiểm sát quyết định đưa vụ án ra xét xử:

Kiểm sát nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có đầy đủ các nội dung theo Điều 178 BLTTHS. Trong đó chú ý đến:

+ Thành phần Hội đồng xét xử, danh sách những người tham gia tố tụng được triệu tập đến phiên toà.

+ Sự tham gia phiên toà của người giám hộ cho người chưa thành niên; luật sư; người bào chữa trong các vụ án theo quy định của điểm a, điểm b khoản 2 Điều 57 BLTTHS.

+ Sự tham gia của những người mà lời khai của họ có giá trị chứng minh tại phiên toà, như nhân chứng, bị hại.. nếu những người đó vắng mặt thì sẽ gây khó khăn cho việc xác định sự thật của vụ án. Nếu thấy nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa đầy đủ hoặc chưa đúng thì phải kiến nghị ngay với Toà án để bổ sung.

+ Kiểm sát việc giao quyết định này cho Viện kiểm sát, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất 10 ngày trước khi mở phiên toà. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử phải kiểm sát thời hạn mở phiên toà theo quyết định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS.

- Kiểm sát việc tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án:

Kiểm sát viên phải xác định tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, cụ thể là:

+ Đối với quyết định tạm đình chỉ vụ án cần kiểm tra thẩm quyền ra quyết định và căn cứ để tạm đình chỉ theo quy định tại Điều 160 BLTTHS; xác định rõ các yêu cầu: Sau khi Toà án tạm đình chỉ phải thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của tố tụng hình sự như: Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo với trường hợp không rõ bị cáo ở đâu; ra quyết định bắt buộc chữa bệnh khi bị cáo bị bệnh tâm thần…

+ Đối với quyết định đình chỉ vụ án: Cần kiểm sát các căn cứ mà Toà án đình chỉ theo đúng theo quy định tại Điều 180 BLTTHS. Chú ý là Toà án chỉ được đình chỉ theo một trong các căn cứ sau: Khoản 1 Điều 105 BLTTHS (người có yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà); các căn cứ theo các điểm 3, 4, 5, 6, 7 Điều 107 BLTTHS; khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên toà.

+ Nếu phát hiện thấy việc đình chỉ, tạm đình chỉ không đúng thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện để xem xét quyết định việc kháng nghị phúc thẩm.

- Kiểm sát việc giao quyết định của Toà án:

+ Kiểm sát viên kiểm sát việc giao quyết định của Tòa án theo quy định tại Điều 182 BLTTHS;

+ Để kiểm sát việc Toà án giao các quyết định thì Kiểm sát viên sau khi nhận được các quyết định này cần yêu cầu Toà án gửi cho những người khác theo quy định, thông qua hoạt động kiểm sát phần thủ tục tại phiên toà hoặc khiếu nại của người bào chữa, bị can, bị cáo để phát hiện các vi phạm của Thẩm phán, Thư ký trong việc giao các quyết định để có kiến nghị kịp thời với Chánh án.

Báo cáo án

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 36 Bộ luật TTHS, thì việc truy tố bị can trước Toà án do Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định. Vì vậy, trước khi tham gia phiên toà xét xử Kiểm sát viên và lãnh đạo đơn vị phải báo cáo lãnh đạo Viện về việc giải quyết vụ án.

- Về hình thức:

Văn bản báo cáo án phải ghi rõ ngày, tháng, năm báo cáo án, người báo cáo án phải ký tên, nêu ý kiến của Kiểm sát viên là lãnh đạo đơn vị (Viện Kiểm sát nhân dân tối cao là lãnh đạo Vụ, ở Viện Kiểm sát tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là lãnh đạo cấp Phòng). Văn bản báo cáo án phải được lưu giữ trong hồ sơ kiểm sát vụ án. Bản báo án phải ghi rõ lý lịch bị can: họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, thành phần xã hội, quan hệ gia đình, những đặc điểm cơ bản thuộc về nhân thân như tiền án, tiền sự. . . của bị can, ngày bị tạm giữ, tạm giam (nếu có). Ngoài ra, báo cáo cũng ghi đầy đủ về các thông tin của người bị hại, bị đơn dân sự, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp.

- Về nội dung:

Báo cáo án phải nêu tóm tắt nội dung vụ án, cụ thể là: thời gian, địa điểm, hoàn cảnh nơi phạm tội. Diễn biến của hành vi phạm tội. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội? vụ án do một hay nhiều người thực hiện, có đồng phạm không, vai trò trách nhiệm từng người trong vụ án; tính chất lỗi của từng người tham gia? mục đích và động cơ phạm tội của từng người? tính chất và mức độ thiệt hại? Báo cáo cần phân tích và viện dẫn đầy đủ các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội. Cụ thể là, lời khai nhận tội hoặc chối tội của bị can, lời khai của người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan... Kiểm sát viên phải báo cáo đầy đủ các lời khai (kể cả lời khai do cơ quan điều tra thu thập và các lời khai do Viện kiểm sát thu thập) để lãnh đạo có đầy đủ các thông tin trước khi quyết định phương hướng xử lý vụ án. Báo cáo cụ thể biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi; các vật chứng thu thập được, những dấu vết, tài liệu thu thập được có ý nghĩa chứng minh hoặc phủ nhận hành vi phạm tội. Kết luận giám định về những vấn đề xác định sự thật vụ án (giám định tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự, giá trị tài sản, tỷ lệ thương tật, tốc độ xe cơ giới, vật liệu nổ, vũ khí, tiền giả, séc giả, ma tuý, tài chính...). Báo cáo cần nêu rõ những điểm khác nhau và những mâu thuẫn trong các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được. Khi báo cáo Kiểm sát viên có thể đọc văn bản đã được chuẩn bị, sau đó, trình bày thêm trên sơ đồ hiện trường, máy chiếu...

- Đề xuất áp dụng pháp luật:

Báo cáo cần đối chiếu giữa hành vi phạm tội của bị can với các quy định của BLHS để xác định rõ hành vi của bị can phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS. Ngoài quy định của BLHS, Kiểm sát viên cần căn cứ vào các văn bản pháp luật khác để viện dẫn áp dụng đối với bị can, nhất là trong các trường hợp điều luật quy định về tội phạm của BLHS lại dưới dạng quy định cần viện dẫn các văn bản pháp luật khác. Ngoài ra, Kiểm sát viên cần nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật như các thông tư liên tịch, các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về những nội dung có liên quan.

- Đề xuất đường lối giải quyết vụ án:

Để cho việc đề xuất có căn cứ, ngoài việc nêu những căn cứ chứng minh bị can phạm tội gì, theo điều, khoản nào của BLHS, báo cáo án cần xác định rõ những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo (Điều 46, 48 BLHS), trong đó, cần phân biệt rõ những tình tiết có tính chất tăng nặng hoặc giảm nhẹ chung đối với tất cả các bị can, bị cáo trong vụ án có đồng phạm (phạm tội có tổ chức, phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, phạm tội chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn. . .) và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ chỉ gắn liền với từng bị can, bị cáo như tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội nhiều lần, cố tình thực hiện tội phạm đến cùng, tự thú, thật thà khai báo, tố giác tội phạm, lập công chuộc tội, người phạm tội là người già, phụ nữ có thai, người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần . . . Trong trường hợp vụ án vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ thì báo cáo án phải đánh giá toàn diện trên tất cả các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ để xác định ảnh hưởng của các tình tiết tăng nặng hay các tình tiết giảm nhẹ lớn hơn. Trên cơ sở đó, đề xuất hướng xử lý đối với bị can, bị cáo, đồng thời cũng cần xác định rõ bị can, bị cáo có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự hay không? Việc giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự (nếu có) thế nào?..

- Báo cáo vụ án cũng cần đề cập đến các tình tiết mà qua nghiên cứu hồ sơ Kiểm sát viên thấy khác với kết luận điều tra, những nội dung mà Viện kiểm sát yêu cầu điều tra, nhưng quá trình điều tra chưa được làm rõ. Đối với các nội dung mà cơ quan điều tra chưa làm rõ thì Kiểm sát viên cũng cần nêu rõ các phương pháp cần tiến hành, như cần xác minh thêm vấn đề gì? Ai xác minh và thời gian tiến hành?... Đối với các vấn đề cần thay đổi nội dung các tình tiết của vụ án so với bản kết luận điều tra hoặc thay đổi diện truy tố cũng cần báo cáo với lãnh đạo Viện.

Đối với các bị can kêu oan, những vấn đề mà dư luận xã hội đề cập đến các tình tiết của vụ án như điều tra không khách quan, bỏ lọt tội phạm... thì Kiểm sát viên cần báo cáo đầy đủ với Lãnh đạo Viện.

- Khi báo cáo án, các Kiểm sát viên trực tiếp trả lời các câu hỏi của Lãnh đạo viện. Những vấn đề nào chưa trả lời được thì ghi chép lại nghiên cứu trả lời sau. Kiểm sát viên phải ghi chép ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo viện. Những vụ án được đưa ra Uỷ ban kiểm sát xin ý kiến hoặc thỉnh thị Viện kiểm sát cấp trên thì ý kiến chỉ đạo hoặc văn bản thỉnh thị và trả lời thỉnh thị cần phải được lưu lại trong hồ sơ kiểm sát (không để vào hồ sơ chính). Đối với những vụ án phức tạp, quan trọng cần phải có sự chỉ đạo chặt chẽ của các ngành, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện kiểm sát cấp mình họp trù bị với Toà án.

Rút truy tố trước khi mở phiên toà.

- Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Nếu Kiểm sát viên thấy có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 của BLTTHS hoặc có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo theo quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của BLHS, thì phải báo cáo lãnh đạo Viện xem xét quyết định rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án.

- Báo cáo đề xuất của kiểm sát viên với lãnh đạo viện kiểm sát về việc rút quyết định truy tố phải được thể hiện bằng văn bản trình bày rõ ràng các yêu cầu: Tóm tắt nội dung quyết định truy tố, căn cứ để rút quyết định truy tố; quan điểm đề xuất của Kiểm sát viên (rút toàn bộ; hay rút một phần, cụ thể rút vấn đề gì với ai, lý do, hướng giải quyết tiếp theo của vụ án là gì...).

- Đề xuất của Kiểm sát viên rút quyết định truy tố phải được lãnh đạo trực tiếp (lãnh đạo Vụ, Trưởng phòng, Phó Viện trưởng) có ý kiến cụ thể, sau đó báo cáo với Viện trưởng xem xét quyết định cuối cùng. Với những vụ án phức tạp về đánh giá chứng cứ, vướng mắc về quan điểm giải quyết thì phải báo cáo VKSND cấp trên (cần chú ý: Mọi hoạt động nghiệp vụ chỉ được giải quyết trong thời hạn chuẩn bị xét xử của Toà án theo quy định của BLTTHS).

- Đối với những vụ án do Viện kiểm sát cấp trên uỷ quyền cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố, nếu Viện kiểm sát uỷ quyền có tài liệu là căn cứ rút quyết định truy tố thì trình tự làm như trên và ban hành quyết định rút quyết định truy tố, sau đó chuyển văn bản cho Viện kiểm sát được uỷ quyền để chuyển cho Toà án đang thụ lý hồ sơ vụ án thực hiện các bước tiếp theo quy định của BLTTHS.

- Nếu Viện kiểm sát được uỷ quyền thấy có căn cứ để rút quyết định truy tố thì phải làm văn bản báo cáo Viện kiểm sát cấp trên đã uỷ quyền, nêu rõ lý do, quan điểm (kèm theo tài liệu làm căn cứ rút quyết định truy tố) để Viện kiểm sát đã uỷ quyền xem xét quyết định việc rút quyết định truy tố.

Xây dựng đề cương xét hỏi

- Trước khi tham gia phiên toà, Kiểm sát viên phải dự thảo đề cương xét hỏi và những nội dung cần làm rõ tại phiên toà như: Hỏi về hành vi phạm tội, thời gian, địa điểm, động cơ, mục đích, hậu quả, công cụ, phương tiện phạm tội, thủ đoạn phạm tội…

- Dự kiến những tình huống, diễn biến có thể xảy ra tại phiên toà như thái độ tâm lý của bị cáo, khả năng phản cung của bị cáo, thay đổi lời khai của những người tham gia tố tụng. Dự kiến những tài liệu, chứng cứ đưa ra để đấu tranh với bị cáo, trích đọc lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, dự kiến đối chất tại phiên toà để giải quyết các mâu thuẫn…

- Chuẩn bị những câu hỏi đối với người làm chứng, người bị hại, người giám định và những người tham gia tố tụng khác. Phải dự kiến đầy đủ nội dung cần hỏi đối với từng đối tượng. Ví dụ, đối với người bị hại cần phải hỏi kỹ về yêu cầu bồi thường thiệt hại, yêu cầu xử lý đối với bị cáo và các tình tiết của vụ án mà họ có thể biết được. Đối với người làm chứng cần chú ý hỏi về những tình tiết của vụ án mà họ biết, về quan hệ của họ với bị can, bị cáo, đối với người giám định, chủ yếu nêu những câu hỏi về những căn cứ khoa học về kết luận giám định.v.v

- Dự kiến những vấn đề mà người bào chữa hoặc bị cáo quan tâm để đặt ra những câu hỏi làm sáng tỏ …

- Nội dung các câu hỏi phải rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn, không đặt các câu hỏi mớm cung, dụ cung .v.v.

Dự kiến những vấn đề cần tranh luận tại phiên toà.

- Để bảo đảm việc tranh luận có hiệu quả, Kiểm sát viên phải dự kiến trước những vấn đề mà bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đưa ra trong phiên toà. Thường đó là những vấn đề về đánh giá chứng cứ, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, thiệt hại do tội phạm gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân bị cáo, những điểm mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án, vai trò của bị cáo trong đồng phạm v.v… Chuẩn bị lý lẽ để bác bỏ những quan điểm sai trái, không đúng của bị cáo, người bào chữa trên cơ sở viện dẫn chứng cứ để chứng minh, bảo vệ quan điểm truy tố của Viện kiểm sát, đường lối, chính sách pháp luật.

- Kiểm sát viên phải chuẩn bị đầy đủ các văn bản pháp luật cần thiết có liên quan đến vụ án để khi cần thiết trích đọc hoặc viễn dẫn có căn cứ, chính xác.

- Để đảm bảo tranh luận tại phiên toà đạt chất lượng tốt Kiểm sát viên phải tổng hợp, đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện, coi trọng cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, các tình tiết có liên quan đến vụ án; phải kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ tài liệu được thu thập trong quá trình giải quyết vụ án.

2. Xây dựng dự thảo luận tội.

- Yêu cầu của bản dự thảo luận tội.

+ Những nội dung của bản luận tội phải được chứng minh bằng các chứng cứ thu thập đầy đủ trong hồ sơ vụ án. Các tình tiết, chứng cứ nêu trong bản luận tội là có thực và được thể hiện tại các bút lục của hồ sơ vụ án. Các căn cứ áp dụng cũng phải được bảo đảm đúng với các điểm, khoản, điều mà Kiểm sát viên trích dẫn.

Việc mô tả hành vi phạm tội, phân tích đánh giá chứng cứ, phân tích vai trò trách nhiệm của bị cáo gắn liền với việc viện dẫn chứng cứ để chứng minh phải chính xác, lôgíc. Việc đề xuất đường lối xử lý phải trên cơ sở phân tích đánh giá chứng cứ, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, nhân thân người phạm tội, vai trò trách nhiệm của từng bị cáo trong vụ án, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đồng thời, xem xét đối chiếu với các quy định của pháp luật hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan để cân nhắc lựa chọn điều, khoản của BLHS để đề xuất Toà án áp dụng pháp luật xử lý chính xác, phù hợp với tính chất mức độ, hậu quả ao hành vi phạm tội gây ra.

- Bản luận tội phải thể hiện được tính đấu tranh và tính thuyết phục cao:

Bản luận tội phải thể hiện được sự phê phán và lên án trước dư luận về hành vi phạm tội của bị cáo, có tác dụng răn đe, phòng ngừa; đồng thời có căn cứ, có lý, có tình.

Bản luận tội phải xác định được nguyên nhân và điều kiện phạm tội, thông qua đó, tuyên truyền giáo dục pháp luật, góp phần đấu tranh chông và phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật.

- Bản luận tội phải bám sát các nội dung truy tố. Nội dung của bản luận tội phải bám sát nội dung truy tố của bản cáo trạng. Bản cáo trạng truy tố những hành vi phạm tội nào, bị can nào thì nội dung của bản luận tội phải phân tích, đánh giá kết luận về hành vi phạm tội đó và bị can đó, không được bỏ sót vấn đề nào.

- Bản luận tội phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên toà và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.

Cơ cấu của luận tội:

Gồm 3 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung và Phần kết luận.

- Phần mở đầu:

Phần này mang tính chất vào đề và được bắt đầu bằng câu: "Thư­­a Hội đồng xét xử", tiếp đó Kiểm sát viên tự giới thiệu về mình là đại diện Viện kiểm sát… thực hành quyền công tố tại phiên toà sơ thẩm xét xử về hình sự vụ án (nêu tên vụ án). Sau đó nêu mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, tầm quan trọng của việc xét xử vụ án.

- Phần nội dung:

Đây là phần trọng tâm và quan trọng nhất, đòi hỏi Kiểm sát viên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, phải chuẩn bị kỹ l­­ưỡng, khách quan, đầy đủ và có sức thuyết phục cao, nhất là khi xét xử các vụ án nghiêm trọng và phức tạp hoặc các vụ án được tổ chức xét xử l­ưu động có đông người tham dự.

Phần này gồm những vấn đề sau:

+ Phân tích đánh giá chứng cứ:

Trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả thẩm vấn tại phiên tòa, Kiểm sát viên cần đánh giá khách quan, toàn diện và đầy đủ để xác định được sự thật của vụ án; xác định tội phạm đã xảy ra và người phạm tội; hành vi phạm tội đã diễn ra như­­ thế nào, nêu chứng cứ chứng minh (lời khai, kết quả giám định, các chứng từ… có nêu bút lục, nêu đúng hành vi phạm tội và viện dẫn chứng cứ chứng minh. Sau khi chứng minh toàn bộ hành vi phạm tội, lưu ý cả hậu quả của tội phạm, ý thức chủ quan). Nếu có lời bào chữa của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác thì phải lập luận, bác bỏ hoặc chấp nhận và viện dẫn chứng cứ chứng minh. Từ đó, Kiểm sát viên đánh giá tổng hợp, kết luận về sự việc phạm tôi, người phạm tội và viện dẫn các chứng cứ để chứng minh tội phạm như: Các biên bản khám nghiệm, kiểm tra, thu giữ vật chứng, giám định pháp y, sổ sách, chứng từ, lời khai của bị cáo, người bị hại, người liên quan, nhân chứng… trước Cơ quan điều tra và tại phiên tòa (có phân tích, đánh giá những mâu thuẫn để kết luận đúng, sai rõ ràng). Trên cơ sở đánh giá toàn bộ chứng cứ của vụ án, Kiểm sát viên sẽ khẳng định nội dung truy tố của bản cáo trạng là hoàn toàn đúng hoặc có vấn đề gì cần thay đổi như: Rút quyết định truy tố, thay đổi tội danh, khung hình phạt nhẹ hơn… Đối với những vấn đề, tình tiết mới phát hiện tại phiên tòa có thể làm thay đổi nội dung, tính chất của vụ án, nếu chưa được thẩm tra đầy đủ, chưa có đủ căn cứ thì không thể kết luận mà phải đề nghị hoãn phiên tòa để điều tra xác minh.

Khi phân tích đánh giá chứng cứ đối với vụ án có bị cáo phạm nhiều tội, thì phải tuân theo quy định đi từ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng đến tội phạm ít nghiêm trọng. Có thể xếp thành nhóm tội phạm có liên quan chặt chẽ với nhau để cùng phân tích đánh giá như: Tội giết người và cướp tài sản, tội đưa hối lộ và nhận hối lộ... Cần tránh việc sao chép nội dung của bản cáo trạng vào nội dung luận tội.

- Phân tích đánh giá tình chất, mức độ tội phạm, vai trò, vị trí, trách nhiệm của bị cáo (hoặc từng bị cáo):

+ Trên cơ sở đánh giá chứng cứ để phân tích đánh giá chung tính chất, mức độ của vụ án, tính chất hành vi và thủ đoạn phạm tội, xem xét mục đích và động cơ phạm tội, mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra; phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo; xác định nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh… phạm tội.

+ Đánh giá, xác định vai trò, trách nhiệm của từng bị cáo trong vụ án theo trật tự: Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tọi phạm ít nghiêm trọng. Cần sắp xếp các bị cáo theo thứ tự về vai trò trong vụ án nh­­ư trong cáo trạng. Đối với từng bị cáo cũng phải phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ được áp dụng đối với họ.

+ Khi phân tích, xác định vai trò, trách nhiệm của bị cáo nào xong thì kết luận bị cáo đã phạm tội gì, tội đó được quy định tại điều, khoản, điểm nào của BLHS.

+ Nêu những thiếu sót sơ hở, vi phạm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội … và nguyên nhân điều kiện tội phạm phát sinh, từ đó có kiến nghị với các cơ quan, đơn vị rút kinh nghiệm, đề ra biện pháp xử lý, sửa chữa.

- Đề nghị xử lý.

+ Trên cơ sở đánh giá, phân tích tính chất, mức độ hậu quả của vụ án, mục đích và động cơ phạm tội, thủ đoạn thực hiện tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò của từng bị cáo trong vụ án và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ được áp dụng cho từng bị cáo; nguyên nhân, điều kiện phạm tội … có chú ý đến tình hình đấu tranh chống tội phạm nói chung, một loại tội nào đó nói riêng; tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa ph­ương… mà đề nghị xử lý đối với từng bị cáo.

Khi đề nghị xử lý phải theo thứ tự sau:

+ Đề nghị hình phạt chính trước, đối với bị cáo chính trước (theo trật tự như­­ đã nêu ở phần đánh giá vài trò, trách nhiệm của từng bị cáo). Bị cáo phạm nhiều tội phải đề nghị hình phạt cho từng tội riêng biệt và tổng hợp theo quy định tại Điều 50 BLHS. Nếu bị cáo đang chấp hành một bản án khác thì phải đề nghị tổng hợp hình phạt theo Điều 51 BLHS.

+ Hình phạt bổ sung: các bị cáo bị xét xử về các tội phạm mà theo quy định của BLHS, việc áp dụng hình phạt bổ sung là bắt buộc thì đều phải đề nghị áp dụng. Nếu đề nghị không áp dụng phải nêu rõ lý do. Đối với hình phạt bổ sung mà luật quy định có thể (tuỳ nghi) thì phải cân nhắc để giải quyết cho phù hợp.

+ Các biện pháp t­ư pháp quy định tại các điều 41, 42, 43, 44 BLHS. Chú ý khi đề nghị bồi thường thiệt hại cần cụ thể, tránh nêu chung chung.

- Phần kết luận của bản luận tội:

Phần này cần l­­ưu ý Hội đồng xét xử về yêu cầu, mục đích, tầm quan trọng… của việc xét xử vụ án để có quyết định chính xác và về những quan điểm mới phát sinh tại phiên toà, những thay đổi quyết định truy tố của Viện kiểm sát tại phiên toà (nếu có) để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết khi nghị án.

3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên toà sơ thẩm hình sự.

Kiểm sát việc chấp hành các thủ tục tố tụng tại phiên tòa

- Kiểm sát thủ tục bắt đầu phiên tòa:

+ Kiểm sát hoạt động của Thư ký Toà án tại phiên tòa theo đúng quy định tại Điều 197 BLTTHS.

+ Đề nghị hoãn phiên tòa nếu thấy số lượng hoặc thành phần Hội đồng xét xử không đúng theo quy định tại Điều 185 và Điều 307 BLTTHS.

+ Đối chiếu quyết định đưa vụ án ra xét xử do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đọc và quyết định đưa vụ án ra xét xử mà Toà án đã gửi cho Viện kiểm sát (Điều 182 BLTTHS) xem có thống nhất với nhau không? Nếu có điểm, mục nào mâu thuẫn thì cần đánh dấu hoặc ghi lại để lưu ý Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa hoặc kiến nghị khắc phục. Căn cứ Điều 201 BLTTHS thì sau khi đọc xong Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa đề nghị Thư ký Toà án báo cáo danh sách những người được triệu tập đã có mặt đủ chưa? Nếu có người vắng mặt thì báo cáo lý do của sự vắng mặt đó; kiểm tra căn cước của những người được triệu tập đến phiên tòa...

+ Căn cứ kết quả kiểm tra ở giai đoạn trước khi bắt đầu phiên tòa đối chiếu với tài liệu có trong hồ sơ vụ án để phát biểu quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử giải thích rõ thêm quy định của pháp luật, đề nghị tiến hành xét xử hoặc phải hoãn phiên tòa khi có căn cứ pháp luật theo quy định tại các Điều 187, 190, 191, 192, và 193 BLTTHS.

+ Căn cứ vào các điều luật tương ứng quy định tại các điều 42, 45, 46, 47, 60, 61 và 202 BLTTHS và hướng dẫn tại Phần I Nghị quyết số 03/2003/NQ-HĐTP để đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và quyết định, khi có người yêu cầu thay đổi ai trong số những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch. Quyết định về việc thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên và người giám định, người phiên dịch phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và lập thành văn bản theo quy định của khoản 2 Điều 199 BLTTHS và hướng dẫn tại phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP.

+ Kiểm sát viên phải được Hội đồng xét xử hỏi ý kiến về việc giải quyết những yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt theo quy định tại Điều 205 BLTTHS. Việc quyết định các vấn đề này cũng phải được Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án, được ghi trong biên bản phiên tòa (Điều 199 BLTTHS).

+ Xem xét quyết định việc cách ly người làm chứng với những người có liên quan? Cách ly bị cáo với người làm chứng theo quy định của khoản 2 Điều 204 BLTTHS.

+ Nghiên cứu nắm vững việc giám sát bị cáo tại phiên toà theo quy định tại Điều 188 BLTTHS và hướng dẫn tại mục 1 phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP; Quyết định số 810/2006/QĐ-BCA ngày 4/7/2006 của Bộ trưởng Bộ công an ban hành Quy trình bảo vệ phiên tòa, áp giải bị cáo, dẫn giải người làm chứng ra tòa.

- Kiểm sát thủ tục xét hỏi tại phiên tòa:

+ Kiểm sát Hội đồng xét xử tiến hành việc xét hỏi theo đúng trình tự quy định tại Điều 207 BLTTHS. Thông qua xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án, làm cơ sở cho việc xác định tội danh, quyết định hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Hội đồng xét xử phải cho bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và những tình tiết của vụ án rồi mới hỏi thêm theo quy định tại khoản 2 Điều 209 BLTTHS. Hội đồng xét xử phải hỏi từng bị cáo theo quy định tại khoản 1 của Điều 207 và trình tự xét hỏi theo quy định tại khoản 2 của Điều 209 BLTTHS.

+ Việc công bố lời khai tại Cơ quan điều tra chỉ được thực hiện khi có một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 208 BLTTHS. Kiểm sát viên phải lưu ý: Mọi chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đều phải được thẩm tra, xác minh công khai tại phiên tòa. Do vậy, tuỳ theo trình tự xét hỏi và căn cứ vào khoản 2 Điều 208 BLTTHS, Hội đồng xét xử hoặc Kiểm sát viên công bố lời khai hoặc tài liệu.

+ Kiểm sát việc xét hỏi bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc đại diện hợp pháp của họ; người làm chứng, người giám định được thực hiện theo quy định tại các điều 209, 210, 211 và 215 BLTTHS.

+ Kết thúc việc xét hỏi, theo quy định tại Điều 216 BLTTHS thì Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa không? Nếu có và xét thấy cần thiết thì Chủ tọa phiên tòa phải tiếp tục việc xét hỏi.

+ Ngoài ra, trong quá trình xét xử, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa như việc có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, ý thức chấp hành nội quy phòng xử án, thái độ khai báo trong quá trình được xét hỏi v.v…

- Kiểm sát việc tuyên án:.

+ Kiểm sát viên cần nắm vững giới hạn việc xét xử của tòa án theo quy định tại Điều 196 BLTTHS và Hướng dẫn tại mục 2 phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP như: Tòa án có thể xét xử theo khoản nặng hơn hoặc khoản nhẹ hơn so với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật; xét xử về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố (tiểu mục 2.2. Phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP); về một tội nhẹ nhất trong các tội mà Viện kiểm sát truy tố hoặc về tội nhẹ hơn tất cả các tội mà Viện kiểm sát truy tố đối với tất cả các hành vi phạm tội, trong trường hợp Viện kiểm sát truy tố bị cáo về nhiều tội đối với nhiều hành vi phạm tội (tiểu mục 2.3 mục 2 phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP).

+ Nếu xét thấy có thể xét xử bị cáo theo một trong các trường hợp trên đây, Kiểm sát viên cần kiểm sát việc tuân thủ quy định của BLTTHS về thẩm quyền xét xử của Toà án các cấp, về thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm và về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.

+ Kiểm sát viên phải kiểm sát việc Hội đồng xét xử thực hiện những yêu cầu khi ghi biên bản phiên tòa theo quy định tại Điều 200 BLTTHS.

+ Kiểm sát viên phải kiểm sát việc Hội đồng xét xử tuyên án theo quy định tại Điều 226 BLTTHS và Hướng dẫn tại Mục 3 phần IV Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP.

+ Kiểm sát viên kiểm sát việc trả tự do cho bị cáo hoặc bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án theo quy định tại Điều 227, Điều 228 BLTTHS, Hướng dẫn tại mục 4 phần IV Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP.

+ Kiểm sát viên phải ghi lại những nhận định quan trọng, nội dung quyết định của bản án sơ thẩm để làm căn cứ kiểm tra đối chiếu với biên bản phiên toà và báo cáo Lãnh đạo Viện (cần lưu ý cả phần lý lịch bị cáo nhất là các bị cáo có nhiều tiền án thì phải ghi cụ thể các số bản án ngày bắt thi hành bản án đó, ngày thi hành xong bản án .v.v. Đối với phần quyết định hình phạt cần chú ý việc khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt tù cho hưởng án treo, các biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo là người chưa thành niên .v.v. tất cả những tình tiết này có ý nghĩa để đối chiếu giữa bản án Tòa án tuyên tại tòa với bản án ban hành sau này để kiểm sát bản án).

- Kiểm sát việc hoãn phiên tòa:

Kiểm sát viên phải đề nghị hoãn phiên toà trong các trường hợp sau:

+ Bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng; người bào chữa vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng Hình sự; người tham gia tố tụng khác vắng mặt sẽ gây trở ngại cho việc xét xử vụ án;

+ Thành phần Hội đồng xét xử không đúng với quy định của BLTTHS;

+ Bị cáo yêu cầu hoãn phiên toà, nếu việc giao nhận bản cáo trạng và quyết định đưa vụ án ra xét xử không đúng quy định tại khoản 2 Điều 49 và khoản 1 Điều 182 BLTTHS.

Trường hợp Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử thì Kiểm sát viên phải tham gia phiên toà và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Sau phiên toà phải báo cáo ngay với lãnh đạo Viện cấp mình để xem xét, quyết định và báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên.

Hoạt động của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa.

- Đọc cáo trạng.

+ Trước khi đọc cáo trạng, Kiểm sát viên cần đứng dậy, hướng về phía Hội đồng xét xử và những người tham dự phiên tòa để có lời phát biểu ngắn mang tính “dẫn đề”. Ví dụ: Thưa Hội đồng xét xử, tôi là … đại diện Viện kiểm sát tỉnh (hoặc quận, huyện…) xin công bố bản cáo trạng hoặc nói ngắn gọn “Tôi xin công bố bản cáo trạng”.

+ Kiểm sát viên phải đọc nguyên văn bản cáo trạng, không được tự ý bớt xén lời văn hoặc sửa chữa từ, ngữ… Khi đọc bản cáo trạng, Kiểm sát viên phải đọc to, rõ ràng, mạch lạc, chính xác, ngắt câu hoặc từ phải đúng lúc, đúng chỗ. Phải sử dụng từ ngữ tiếng Việt phổ thông. Đối với các vụ án có các tên riêng tiếng nước ngoài thì phải phiên âm sang tiếng Việt và đọc chuẩn xác đúng câu từ đó.

+ Sau khi đọc cáo trạng, Kiểm sát viên có thể trình bày ý kiến bổ sung để làm rõ thêm nội dung của bản cáo trạng chứ không phải là bổ sung làm thay đổi nội dung bản cáo trạng (trừ trường hợp được Viện trưởng đồng ý).

- Tham gia xét hỏi.

Kiểm sát viên xét hỏi để khẳng định kết quả điều tra. Thông qua việc hỏi để khẳng định, chứng minh các tài liệu điều tra được thu thập có trong hồ sơ vụ án đã đảm bảo tính hợp pháp hay không về mặt nội dung cũng như về mặt hình thức. Kiểm sát viên phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu quy định tại Điều 22 Quy chế công tác THQCT&KSXX và lưu ý một số hoạt động sau:

Xét hỏi bị cáo:

Kiểm sát viên cần chú ý:

+ Lắng nghe, theo dõi, đối chiếu với những câu hỏi của thành viên Hội đồng xét xử, nếu họ đã hỏi trùng với dự kiến câu hỏi của mình và bị cáo đã trả lời đúng rồi thì cần đánh dấu (hoặc gạch bỏ) để không hỏi nữa. Nếu các thành viên Hội đồng xét xử hỏi trùng với câu hỏi của mình nhưng bị cáo trả lời chưa rõ thì cũng đánh dấu lại để hỏi cho rõ thêm (Trên cơ sở đề cương tham gia xét hỏi đã chuẩn bị từ giai đoạn trước).

+ Phải hỏi toàn bộ những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội của bị cáo (khoản 3 Điều 209 BLTTHS) để có cơ sở bổ sung, đề xuất trong phần luận tội (đề xuất về tội danh, hình phạt, các quyết định khác có liên quan…), trừ những câu hỏi các thành viên Hội đồng xét xử đã hỏi và bị cáo đã trả lời rõ. Câu hỏi của Kiểm sát viên phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu và phải trực tiếp liên quan đến việc làm sáng tỏ các tình tiết, nội dung của vụ án.

+ Giải thích, thuyết phục bị cáo để bị cáo suy nghĩ trả lời trong trường hợp bị cáo im lặng, không khai báo hoặc thay đổi lời khai so với lời khai tại Cơ quan điều tra. Nếu bị cáo vẫn thể hiện thái độ cố tình không khai báo thì Kiểm sát viên căn cứ vào các câu hỏi tình huống đã dự kiến sẵn để nêu câu hỏi hoặc chuyển sang hỏi tiếp những người khác. Chỉ được công bố những lời khai tại Cơ quan điều tra khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 208 BLTTHS. Đồng thời chỉ cần công bố những lời khai có ý nghĩa chứng minh về các tình tiết của vụ án.

+ Yêu cầu bị cáo khai rõ lý do có sự mâu thuẫn nếu lời khai của bị cáo mâu thuẫn với lời khai tại Cơ quan điều tra để làm cơ sở cho việc xem xét đánh giá tính trung thực, khách quan trong lời khai của bị cáo.

+ Việc xét hỏi đối với bị cáo mà trước đó đã bị cách ly được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 209 BLTTHS.

Xét hỏi đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ.

Kiểm sát viên cần chú ý:

+ Lắng nghe, ghi chép tất cả những ý kiến của người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của những người này khi họ trình bày về những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ; ghi chép những câu hỏi của Hội đồng xét xử và trả lời của họ. Sau đó đối chiếu với dự thảo đề cương tham gia thẩm vấn của mình. Nếu thấy đầy đủ rồi thì thôi tránh hỏi trùng lặp, nếu điểm nào chưa rõ thì hỏi cho rõ thêm.

+ Đặt câu hỏi ngắn, gọn, rõ ràng, dễ hiểu và có liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng này.

Xét hỏi người làm chứng.

Kiểm sát viên cần chú ý:

+ Lắng nghe, ghi chép lại những vấn đề có liên quan đến vụ án mà người làm chứng trình bày. Đặc biệt là các tình tiết có ý nghĩa trong việc buộc tội và gỡ tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo mà người làm chứng cung cấp. Sau khi Hội đồng xét xử hỏi, nếu thấy điểm nào chưa được làm rõ thì Kiểm sát viên hỏi, yêu cầu người làm chứng trình bày rõ thêm. Trường hợp lời khai của người làm chứng có mâu thuẫn với nhau hoặc các nhân chứng có lời khai mâu thuẫn nhau thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử cho phép được gọi để đối chất ngay tại phiên tòa, nhằm làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án.

+ Chú ý trạng thái tâm lý của người làm chứng để đặt câu hỏi hoặc nêu vấn đề thật cụ thể cho họ dễ trả lời. Đối với người làm chứng là người chưa thành niên thì tùy từng trường hợp có thể yêu cầu cha, mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy giáo, cô giáo giúp đỡ để hỏi.

+ Kiểm tra và xét hỏi về nguồn gốc, nội dung tài liệu khi có người tham gia tố tụng xuất trình tài liệu mới tại phiên toà để có kết luận về tính hợp pháp và tính có căn cứ của tài liệu đó. Trường hợp chưa đủ điều kiện kết luận mà tài liệu mới đó có thể làm thay đổi nội dung, tính chất vụ án thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà để xác minh.

+ Có thể đề nghị cùng Hội đồng xét xử, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa đến xem xét tại chỗ những vật chứng có liên quan đến vụ án hoặc xem xét nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án, trong quá trình tham gia xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa theo quy định tại Điều 212, 213 BLTTHS.

+ Đề nghị Hội đồng xét xử cho hỏi thêm nếu sau khi đã hỏi mà thấy có vấn đề cần hỏi bổ sung để làm rõ theo quy định tại Điều 216 BLTTHS.

Trình bày luận tội:

+ Theo quy định tại Điều 217 BLTTHS thì Kiểm sát viên trình bày lời luận tội sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng, hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội. Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.

+ Khi trình bày lời luận tội, Kiểm sát viên phải nói rõ ràng, mạch lạc và khúc triết trong từng câu phát biểu, sử dụng từ ngữ phải chuẩn xác theo tiếng Việt phổ thông.

+ Kết thúc phần xét hỏi, Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa thường phát biểu điều hành “kết thúc phần xét hỏi (hoặc thẩm vấn) công khai tại phiên tòa, chuyển sang phần tranh luận, trước khi tranh luận, mời vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu lời luận tội ”. Kiểm sát viên phải đứng dậy hướng về phía Hội đồng xét xử và mở đầu là câu “ thưa Hội đồng xét xử ” tiếp đó Kiểm sát viên tự giới thiệu về mình, tư cách pháp lý và nhiệm vụ của mình tại phiên tòa, tên vụ án.

+ Tiếp theo Kiểm sát viên trình bày phần nội dung của luận tội, phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu theo quy định của ngành, bao gồm:

Thứ nhất,phân tích, tổng hợp chứng cứ. Trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả xét hỏi, thẩm tra tại phiên tòa, luận tội phải phân tích đánh giá chứng cứ nhằm chứng minh các yếu tố cấu thành tội phạm (các tội cụ thể) mà bị cáo (các bị cáo) đã bị truy tố và xét xử, qua đó luận tội cần khẳng định nội dung và quyết định truy tố ghi trong cáo trạng là hoàn toàn đúng. Nếu có gì thay đổi (rút một phần quyết định truy tố, chuyển khung hình phạt hoặc chuyển tội danh nhẹ hơn .v.v…) thì cũng phải đề cập trong luận tội và thực hiện đúng các quy định của BLTTHS.

Thứ hai,việc tổng hợp, đánh giá chứng cứ phải được đánh giá theo trình tự thời gian, theo từng vụ việc, từng bị cáo. Kiểm sát viên phải nêu nội dung lời khai tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa, kết quả giám định, biên bản khám nghiệm… để đảm bảo tính có căn cứ của nội dung luận tội.

Thứ ba, phân tích đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, vai trò, vị trí trách nhiệm của bị cáo (từng bị cáo trong vụ án).

Thứ tư, phân tích những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm và kiến nghị phòng ngừa.

- Đề xuất quan điểm, đường lối xử lý vụ án: Trên cơ sở phân tích, đánh giá chứng cứ, phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, vai trò, vị trí, trách nhiệm của bị cáo (từng bị cáo), nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm ở địa phương… Kiểm sát viên đề xuất quan điểm đường lối xử lý vụ án cần lưu ý một số yêu cầu sau:

Một là, đề nghị hình phạt chính trước, đối với vụ án có nhiều bị cáo thì đề nghị theo thứ tự như đã nêu ở phần đánh giá vai trò, vị trí từng bị cáo (lưu ý phải khấu trừ thời gian tạm giam, tạm giữ khi áp dụng Điều 31 BLHS, khấu trừ thời hạn tạm giam, tạm giữ khi áp dụng Điều 60 BLHS và áp dụng Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 2/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC). Nếu bị cáo phạm nhiều tội thì đề nghị hình phạt từng tội, sau đó tổng hợp theo Điều 50 BLHS. Nếu bị cáo phải chấp hành nhiều bản án thì tổng hợp theo Điều 51 BLHS. Nếu bị cáo bị xét xử về các tội có hình phạt bổ sung là bắt buộc thì phải đề nghị, nếu không bắt buộc thì tuỳ từng trường hợp để quyết định.

Hai là, các biện pháp tư pháp khác áp dụng theo quy định tại các điều 41, 42, 43, 44 BLHS. Chú ý khi đề nghị bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phải căn cứ vào quy định tại các điều từ Điều 604 đến 612 Bộ luật dân sự 2005; Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 để đề nghị áp dụng bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

- Phần kết luận: Kiểm sát viên lưu ý Hội đồng xét xử về yêu cầu, mục đích, tầm quan trọng của việc xét xử vụ án để có quyết định chính xác. Nếu có những thay đổi quyết định truy tố tại phiên toà thì lưu ý Hội đồng xét xử quan tâm khi nghị án. Thông thường, trong thực tế khi kết luận trong luận tội thường thể hiện như sau “Thưa Hội đồng xét xử! Trên đây là toàn bộ quan điểm của VKSND... đối với vụ án. Chúng tôi đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc trong khi nghị án để đưa ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; có tác dụng giáo dục, trừng trị đối với bị cáo và đảm bảo yêu cầu phòng ngừa chung”.

- Tranh luận của Kiểm sát viên.

+ Kiểm sát viên phải có trách nhiệm bảo vệ quan điểm luận tội của mình, bảo vệ cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo tại phiên toà bằng việc đối đáp, tranh luận.

+ Theo quy định tại Điều 218 BLTTHS thì bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về lời luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra ý kiến của mình. Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến để ghi nhận hay bác bỏ, nếu Kiểm sát viên chưa trả lời với từng ý kiến thì Chủ tọa phiên toà có quyền đề nghị Kiểm sát viên đối đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những tham gia tố tụng khác.

Để tranh luận tốt, Kiểm sát viên phải chú ý:

+ Lắng nghe các bên trình bày quan điểm, ý kiến của họ, vừa nghe vừa ghi lại tóm tắt để nắm được nội dung vấn đề. Nếu vụ án có nhiều người cùng bào chữa cho một bị cáo thì Kiểm sát viên có thể nghe từng người để tham gia đối đáp, hoặc tổng hợp ý kiến chung của tất cả những người bào chữa để phản biện.

+ Phân tích nội dung của vấn đề, đồng thời xác định nhanh nội dung cần đối đáp. Những nội dung, vấn đề mà các bên đưa ra phải là những nội dung có liên quan đến vụ án và phải có trong hồ sơ án. Trường hợp tài liệu mới phát sinh thì cũng phải là tài liệu có liên quan đến vụ án và phải kiểm tra nguồn gốc, tính hợp pháp của tài liệu đó để có lập luận đối đáp. Kiểm sát viên có thể đề nghị Hội đồng xét xử cắt những ý kiến của các bên không có liên quan đến vụ án để không phải đối đáp lại.

+ Chủ động đề nghị Chủ tọa phiên toà để tranh luận tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, từng nội dung cụ thể để lựa chọn nội dung nào, vấn đề nào cần đối đáp tranh luận trước v.v. Thông thường, Kiểm sát viên nên chọn những vấn đề mà trong hồ sơ vụ án đã được khẳng định cả hình thức lẫn nội dung phù hợp với kết quả thẩm tra công khai tại phiên toà để phản bác ý kiến của người bào chữa hoặc bị cáo.v.v. Khi tranh luận, cần căn cứ vào lý luận của cấu thành tội phạm, lý luận về chứng cứ để lập luận có tính lôgic từng vấn đề, để từ đó phản bác các ý kiến của phía đối tượng. Kiểm sát viên phải nắm vững những quy định của BLTTHS để khẳng định tính có căn cứ, hợp pháp của tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đồng thời chú ý thẩm tra, xác minh công khai tại phiên toà những thiếu sót về thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra để khẳng định bản chất của vụ việc đang được xem xét và phản bác những ý kiến của người bào chữa đưa ra.

+ Chú ý những mâu thuẫn trong tranh luận của người bào chữa và giữa những người bào chữa với nhau, giữa người bào chữa với người bảo vệ quyền lợi của các đương sự… trong quá trình tham gia phiên toà để làm cơ sở phản bác lại những ý kiến của họ.

4. Hoạt động của kiểm sát viên sau khi kết thúc phiên toà sơ thẩm hình sự

Báo cáo kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử

+ Kiểm sát viên phải báo cáo với lãnh đạo Viện, lãnh đạo đơn vị và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kết quả phiên toà sơ thẩm; đề xuất những vấn đề cần kháng nghị, kiến nghị, hướng giải quyết những vấn đề đó, nếu thấy cần thiết.

+ Báo cáo kết quả xét xử sơ thẩm của VKSND cấp huyện gửi đến Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự, Phòng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; báo cáo kết quả xét xử sơ thẩm của Viện kiểm sát quân sự khu vực gửi đến Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương.

Báo cáo kết quả xét xử của VKSND cấp tỉnh gửi đến Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự, Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm khu vực; báo cáo kết quả xét xử của Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương gửi đến Viện kiểm sát quân sự Trung ương.

Đối với bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì Kiểm sát viên đã tham gia xét xử sơ thẩm làm báo cáo kèm theo các văn bản, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ án gửi Viện kiểm sát sẽ xét xử phúc thẩm để giải quyết theo thẩm quyền.

Báo cáo kết quả phiên toà thực hiện theo mẫu của VKSND tối cao.

Kiểm tra biên bản phiên tòa:

+ Theo quy định tại khoản 4 Điều 200 BLTTHS thì Kiểm sát viên được xem biên bản phiên toà, có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên toà và ký xác nhận. Để kiểm tra biên bản phiên tòa, Kiểm sát viên đối chiếu bút ký của mình tại phiên tòa với biên bản phiên toà xem biên bản phiên tòa có ghi đầy đủ không? Có mâu thuẫn gì không? Nếu phát hiện sai sót thì yêu cầu sửa chữa, bổ sung (lưu ý không được sửa chữa tẩy xoá vào những phần đã ghi mà phải ghi xuống phía sau những phần đó và Kiểm sát viên cùng Thư ký tòa án ký vào phần bổ sung).

+ Kiểm sát biên bản phiên tòa thường liên quan chặt chẽ đến việc kiểm sát việc chấp hành thủ tục tố tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự. Do vậy, Kiểm sát viên cần nắm vững các quy định từ Điều 170 đến Điều 229 BLTTHS để kịp thời phát hiện các vi phạm của Tòa án, có biện pháp yêu cầu Tòa án khắc phục.

Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án:

+ Kiểm sát viên phải kiểm tra bản án hoặc quyết định của Toà án nhằm phát hiện những sai sót và vi phạm của Toà án trong việc ra bản án hoặc quyết định. Khi kiểm tra bản án hoặc quyết định của Toà án Kiểm sát viên cần chú ý:

+ Kiểm sát viên căn cứ Điều 224 BLTTHS để tiến hành kiểm sát bản án: Bản án trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có tội, xác định bị cáo có phạm tội hay không và nếu phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của BLHS. Bị cáo có những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nào theo quy định của pháp luật và cần phải xử lý ra sao?...

+ Kiểm sát viên cần đọc kỹ toàn bộ bản án, cả phần thủ tục cũng như phần nội dung và phần quyết định của vụ án khi kiểm sát bản án.

+ Nếu phát hiện những vi phạm, thiếu sót của bản án thì phải có hướng xử lý tuỳ theo mức độ. Những sai sót nhỏ không ảnh hưởng đến bản chất của vụ án thì kiến nghị Thẩm phán Chủ toạ phiên toà khắc phục, sửa chữa kịp thời. Những thiếu sót, vi phạm nghiêm trọng ảnh hưởng đến bản chất của vụ án, không đúng với thực tế khách quan thì phải xem xét thận trọng, kịp thời đề xuất với Lãnh đạo Viện xem xét quyết định kháng nghị.

- Kiểm sát việc giao bản án.

+ Sau khi xét xử sơ thẩm xong, Kiểm sát viên cần tập trung vào việc kiểm sát việc giao bản án của Hội đồng xét xử bảo đảm việc giao bản án thực hiện theo quy định tại Điều 229 BLTTHS.

+ Việc giao bản án ở đây phải được thể hiện bằng biên bản giao - nhận, có chữ ký của người nhận.

- Kháng nghị bản án hoặc quyết định của tòa án, kiến nghị tòa án khắc phục vi phạm.

Sau phiên xét xử sơ thẩm, Kiểm sát viên cần làm một số việc sau:

+ Kiểm tra ngay biên bản phiên tòa, biên bản nghị án, đối chiếu với những ghi chép tại phiên tòa;

+ Báo cáo ngay những diễn biến tại phiên tòa với lãnh đạo Viện kiểm sát, nhất là các ý kiến khác nhau về mức án, về đánh giá chứng cứ tại phiên tòa, quan điểm xét xử của Tòa án có phù hợp với quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát hay không để lãnh đạo Viện xem xét quyết định việc kháng nghị hay không?

+ Đọc kỹ và kiểm tra cụ thể từng phần của bản án, nhận định trong bản án và những phần quyết định cụ thể của bản án, xem xét về các căn cứ áp dụng hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; phần giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự…

+ Nếu các bản án, quyết định có kháng cáo thì Kiểm sát viên phải nghiên cứu các đơn kháng cáo, nhất là các lý do kháng cáo mà bị cáo hoặc người tham gia tố tụng khác nêu ra…

+ Trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ các vấn đề nêu trên, Kiểm sát viên báo cáo đề xuất Lãnh đạo Viện, nêu rõ quan điểm có kháng nghị phúc thẩm hay không, lý do kháng nghị.

Kỹ năng xây dựng kháng nghị phúc thẩm.

+ Về thẩm quyền: Căn cứ Điều 232 BLTTHS thì Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm.

+ VKSND tối cao đã ban hành mẫu số 138 ban hành kèm theo Quyết định số 960/2007/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007, khi viết kháng nghị phúc thẩm cần đáp ứng các yêu cầu sau:

Về hình thức kháng nghị: Hình thức kháng nghị phải thực hiện đúng mẫu quy định. Căn cứ điều luật để ban hành kháng nghị phúc thẩm là Điều 36 và Điều 232 BLTTHS.

Về nội dung kháng nghị: Điều 33 của Quy chế THQCT&KSXXHS xác định bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây: Việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà sơ thẩm phiến diện hoặc không đầy đủ; kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; có vi phạm trong việc áp dụng BLHS. Đây là những trường hợp mà Hội đồng xét xử đã áp dụng các quy định của BLHS không đúng; thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.

Khi viết kháng nghị phải phân tích thật cụ thể vi phạm của bản án sơ thẩm. Vi phạm về thủ tục tố tụng hay vi phạm trong việc áp dụng các quy định của BLHS và viện dẫn căn cứ pháp luật cụ thể (điều luật hoặc của văn bản hướng dẫn áp dụng). Đối với vụ án có nhiều bị cáo bị kháng nghị thì phải phân tích vai trò tham gia thực hiện tội phạm và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của từng bị cáo, đánh giá một cách toàn diện các căn cứ, cơ sở quyết định hình phạt để đề xuất việc xử lý đối với từng trường hợp cụ thể. Đối với vụ án có đồng phạm nhưng chỉ kháng nghị đối với một hoặc một số bị cáo cần có sự phân tích vị trí, vai trò cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo bị kháng nghị so với bị cáo không bị kháng nghị để kháng nghị có căn cứ và có sức thuyết phục.

Trên cơ sở phân tích, lập luận những vi phạm của bản án sơ thẩm phần quyết định của kháng nghị phải cụ thể. Kháng nghị toàn bộ hay một phần bản án? Nếu kháng nghị một phần cần nêu rõ kháng nghị phần nào về áp dụng điểm, khoản, điều luật; về hình phạt hay bồi thường… Kháng nghị yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng nào? tăng hoặc giảm hình phạt đối với bị cáo (hoặc các bị cáo); chuyển từ việc cho bị cáo được hưởng án treo sang không cho hưởng án treo hoặc ngược lại, tăng hoặc giảm mức bồi thường…

Về thời hạn kháng nghị: Quyết định kháng nghị phải được làm trong thời hạn mà pháp luật quy định. Đối với bản án là 15 ngày ở Viện kiểm sát cùng cấp và 30 ngày là ở Viện kiểm sát trên một cấp.

Kiến nghị Toà án khắc phục vi phạm.

- Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, nếu phát hiện Toà án có vi phạm pháp luật trong việc xét xử vụ án thì tuỳ từng trường hợp, Kiểm sát viên tự mình hoặc báo cáo Lãnh đạo Viện kiến nghị với Toà án khắc phục vi phạm.

- Kiến nghị có thể ban hành ngay sau phiên toà, nhưng thường là tổng hợp lại thành một dạng để kiến nghị chung theo định kỳ 6 tháng, 1 năm.

- Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, nếu phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm thì Kiểm sát viên báo cáo Lãnh đạo Viện để xem xét kiến nghị với cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan khắc phục, áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

- Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm, VKSND có quyền kiến nghị với TAND cùng cấp và cấp dưới khắc phục những vi phạm pháp luật trong việc xét xử, kiến nghị với cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

- Thông thường, hình thức kiến nghị được trình bày dưới dạng một văn bản có trích yếu nội dung chính của kiến nghị. Khi viết kiến nghị cũng phải bảo đảm sự chính xác trong việc sử dụng các thuật ngữ pháp lý. Nội dung kiến nghị phải nêu các vấn đề cần kiến nghị theo những dạng vi phạm nhất định có dẫn chứng minh họa và trích dẫn căn cứ pháp luật bị vi phạm.

- Để kiến nghị có nội dung tốt và đem lại hiệu quả cao, Kiểm sát viên cần chú ý tích lũy vi phạm theo những dạng vi phạm nhất định, như vi phạm về thời hạn tố tụng (thời hạn chuyển hồ sơ của các Tòa án cấp sơ thẩm, thời hạn xét xử phúc thẩm, thời hạn tạm giam…); vi phạm về thực hiện các thủ tục tố tụng (biên bản nghị án, biên bản phiên tòa, việc triệu tập những người tham gia phiên tòa phúc thẩm…); vi phạm trong việc áp dụng luật hình sự, về đường lối xét xử đối với những loại tội nhất định. Việc kiến nghị khắc phục vi phạm không chỉ đối với Tòa án cấp phúc thẩm mà còn đối với cả các Tòa án cấp sơ thẩm cũng như các Cơ quan điều tra và các chủ thể khác nếu phát hiện có vi phạm.

Kiểm sát việc kháng cáo, kháng nghị.

Sau phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát viên còn phải chú ý kiểm sát việc kháng cáo, kháng nghị. Khi tiến hành kiểm sát việc kháng cáo, kháng nghị cần chú ý các quy định tại các điều luật của BLTTHS về những người có quyền kháng cáo; thủ tục kháng cáo và kháng nghị; thời hạn kháng cáo, kháng nghị; kháng cáo quá hạn; thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị; hậu quả của việc kháng cáo, kháng nghị; bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị.

Theo dõi kết quả xét xử phúc thẩm.

- Nếu bản án hoặc quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì Kiểm sát viên đã giải quyết vụ án phải theo dõi kết quả xét xử phúc thẩm để kiểm tra lại nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm. Trường hợp không nhất trí với bản án hoặc quyết định phúc thẩm thì Kiểm sát viên báo cáo đề xuất Lãnh đạo Viện cấp mình ký văn bản đề nghị VKSND tối cao xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

- Nếu bản án hoặc quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì Kiểm sát viên đã giải quyết vụ án phải theo dõi kết quả xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm để báo cáo Lãnh đạo Viện và Thủ trưởng đơn vị. Kiểm sát viên cần trực tiếp dự phiên toà phúc thẩm (nhất là đối với các vụ án có kháng nghị của Viện kiểm sát). Nếu thấy không nhất trí với kết quả xét xử phúc thẩm, thì Kiểm sát viên nêu rõ lý do, có văn bản báo cáo với Lãnh đạo Viện cấp mình, để Lãnh đạo Viện báo cáo với VKSND tối cao xem xét, kháng nghị giám đốc thẩm. Trách nhiệm theo dõi và đề xuất ý kiến là thuộc Kiểm sát viên đã giải quyết vụ án sơ thẩm.

- Gặp trường hợp bản án hoặc quyết định sơ thẩm tuy đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị cấp có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì Kiểm sát viên có trách nhiệm tìm hiểu lý do vì sao mà bị kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và theo dõi kết quả xét xử.

Lập, sử dụng và lưu trữ hồ sơ kiểm sát án hình sự.

- Sau khi kết thúc phiên toà, Kiểm sát viên làm báo cáo bằng văn bản gửi cho các cấp theo quy định. Sắp xếp lại hồ sơ kiểm sát, cho đánh số bút lục, làm danh mục bảng kê các tài liệu có trong hồ sơ kiểm sát… Những tài liệu bổ sung sau này cũng phải được đưa đầy đủ vào hồ sơ kiểm sát.

- Kiểm sát viên là người có trách nhiệm quản lý hồ sơ kiểm sát. Chỉ giao hồ sơ kiểm sát cho cấp có thẩm quyền và khi giao phải làm thủ tục giao – nhận theo thủ tục hành chính. Đơn vị mượn hồ sơ nghiên cứu, khi xong việc phải trả lại đầy đủ.

 

Đăng nhập

Liên kết web

Thống kê

  • Số người truy cập:27,700,956
  • Số bài viết:2,965
  • IP của bạn:3.17.186.135

    Thư viện ảnh